Đường cao tối nối Jerusalem và khu vực biển chết, đi vòng qua núi và sa mạc, núi đá
Văn
minh Do Thái không để lại những kiến trúc nổi tiếng như Kim tự tháp, điện
Pantheon hoặc Vạn lý Trường thành, nhưng nó lưu lại mãi mãi một di sản phi vật
thể vô giá mà ít có nền văn minh nào có thể sánh được về tầm ảnh hưởng lâu dài,
sâu sắc đối với văn minh toàn nhân loại.
Dường
như là, mỗi khi bàn luận về sự thông minh có di truyền không, người ta đều nêu
lên dẫn chứng về giải Nobel và người Do Thái. Và cũng như một thông lệ, hàng
năm sau khi công bố giải, người ta đều hỏi người Do Thái chiếm bao nhiêu phần
trăm giải năm ấy. Và thực tế thì con số này không hề nhỏ.
Ví
dụ chỉ sau khi vừa công bố 3 giải Nobel 2011, lập tức có một bài báo nhan đề “Bà
mẹ Yiddeshe có thể tự hào: Năm trong bảy Nobel gia là người Do Thái”. Đó là:
Ralph Steinman và Bruce Beutler, giải Nobel về Y học, Saul Pelmutter và Adam G.
Ross – giải Nobel về Vật lý, Daniel Shechtman – giải Nobel về Hoá học.
Dân
tộc Do Thái là một trong những dân tộc có nền văn hoá và lịch sử lâu đời nhất
của nhân loại, ra đời cùng với thời kỳ văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà và
văn minh Hy Lạp-La Mã thời cổ đại. Nhưng lịch sử bắt họ phải chịu một số phận
không may mắn, bị các bộ tộc và các lãnh chúa khác xâm chiếm đất đai và xua
đuổi dưới những lý do tôn giáo. Từ đó họ phải sống tha hương, từng nhóm kéo
nhau đi khắp mọi nơi trên thế giới để duy trì sự sinh tồn, vượt qua những định
mệnh nghiệt ngã của lịch sử.
Trên
2000 năm qua, đi đến đâu họ cũng tỏ ra là một dân tộc có sức sống dẻo dai,
không bị đồng hoá và ý thức vươn lên mãnh liệt.Trong công việc họ cần cù, kiên
trì và quyết tâm đạt những mục đích mình theo đuổi. Bởi vậy, gần như sống ở đâu
họ cũng thành công.
Sự
thành đạt và khôn ngoan của họ nhiều khi bị thành kiến và kỳ thị. Trong Thế
chiến II, dưới chế độ phát xít, khi Hitler đề cao thuyết “người Đức là một dân
tộc thượng đẳng”. Hitler rất sợ sự vượt trội của người Do Thái, nên dã bắt họ
sống trong các trại tập trung, đày đoạ họ với ý đồ để họ chết dần chết mòn
trong đó.
Người
Do Thái đặc biệt xuất sắc trong lĩnh vực trí tuệ. Họ thường là những nhà khoa
học lớn, những doanh nhân lỗi lạc, những nhà văn kiệt xuất, những nhà tư tưởng
uyên bác, những chính trị gia tài giỏi…
Từ
năm 1901, giải Nobel được thành lập và trở thành một giải thưởng uy tín nhất và
danh giá nhất hành tinh, tôn vinh những người có đóng góp lớn nhất cho nhân
loại, có những phát minh đột phá, những tác phẩm văn chương thấm đẫm tính nhân
văn, những người có công lao kiến tạo một thế giới an bình hơn, tốt đẹp hơn.
Người Do Thái lập tức trở thành một yếu tố quan trọng của giải, dù họ sống ở
các nước khác nhau, mang quốc tịch khác nhau hoặc chính tại đất nước mới thành
lập cách nay không lâu của họ là Israel.
Tính
đến năm 2011, giải Nobel đã trao 108 lần (trừ 4 năm trong Thế chiến I và II
không trao giải) cho trên 800 nhân vật và các tổ chức xã hội. Nếu tính tất cả
các giải, ít nhất có 181 người Do Thái (thuần chủng, hoặc từ 1/2 đến 3/4 dòng
máu Do Thái) được trao giải Nobel, chiếm 22% số nhân vật được coi là những trí
tuệ hàng đầu của nhân loại.
Trong
các giải Nobel qua hơn một thế kỷ, tỉ lệ số người Do Thái chiếm lĩnh các giải
Nobel trong các lĩnh vực như sau:
-
Hoá học: 32 người, chiếm tỷ lệ 21%- Kinh tế: 28 người, chiếm tỷ lệ 42%- Văn
chương: 13 người, chiếm tỷ lệ 12%- Vật lý: 49 người, chiếm tỷ lệ 27%- Hoà bình:
9 người, chiếm tỷ lệ 8%.
Cần
lưu ý rằng số người Do Thái trên Trái đất là 20 triệu (cả trong và ngoài nước)
nghĩa là chưa đến 0,2% dân số thế giới. Như vậy, trong khi dân số thế giới là
gần 8 tỷ với trên 800 giải Nobel, thì bình quân số giải trên đầu người của
người Do Thái so với bình quân của thế giới cao hơn đến 11.950%. Song đó chỉ là
so sánh cho vui thôi, chứ con số này không mấy ý nghĩa bởi kèm theo nó còn bao
nhiêu điều kiện khác nữa. Người ta thường nói giải Nobel trong vài chục năm gần
đây đổ dồn về Mỹ. Song ít ai để ý, trong những “giải Nobel mang thương hiệu Mỹ”
thì người Mỹ gốc Do Thái chiếm một phần quan trọng.
Xin
nêu một vài con số: Giải Nobel Hoá học của Mỹ có 27% là người gốc Do Thái,
Nobel Vật lý – 37%, Nobel Y học & Sinh lý học – 42%, Nobel Kinh tế – 55%,
Nobel Văn chương – 27%, Nobel Hoà bình 10%. Và cũng xin nhớ rằng dân số của
cộng đồng Do Thái chỉ bằng 2% của Mỹ.
Trí
tuệ Do Thái thể hiện không chỉ ở nam giới mà cả nữ giới. Trong 4 ngành khoa học
có 18 nữ Nobel gia thì 36% là các bà gốc Do Thái, tỷ lệ còn cao hơn cả các ông.
Nếu không kể giải Nobel, thì bất cứ giải quốc tế nào khác, tỷ lệ các nhà khoa
học Do Thái cũng tương tự. Chỉ xin kể một giải chúng ta đã nói nhiều là giải
Fields thì các nhà toán học trẻ người Do Thái được giải chiếm 27%, giải thành
tựu suốt đời trong Toán học, họ chiếm tới 55%.
Các
Nobel gia người Do Thái cũng nằm trong một số “điều đặc biệt” của giải. Chẳng
hạn Elia Wiesel, người sống sót từ trại tập trung của phát xít Đức được giải
Nobel Hoà bình năm 1986. Nhà Nobel cao tuổi nhất khi được trao giải là người
Balan gốc Do Thái, Leonid Hurwicz, giải Nobel kinh tế 2007 năm ông đã 90. Nobel
gia sống thọ nhất là bà Rita Levi-Montalcini, giải Nobel Sinh lý học 1936 hiện
đã vượt qua tuổi 102 hoặc một nhà văn bị nhà nước buộc không được nhận giải là
Boris Pasternak, giải Nobel văn học năm 1958. Nhà khoa học được bình chọn là
nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ XX – Albert Einstein – cũng là người Mỹ gốc
Do Thái.
Cả
một dân tộc giỏi làm kinh tế
Chúng
ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công nhất
trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất
sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại. Họ đạt được những thành tựu đó
trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu
vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu
(trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại,
tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như nhà
đất, tài nguyên thiên nhiên…
Chỉ
cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu cực
kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết
hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:
Rất
nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết
họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá
trình trình tiến hóa của nhân loại:
-
Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học thuyết
kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một
trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
-
Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ tịch
Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Ngân hàng Nhà nước Mỹ) nắm quyền sinh sát
lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;
-
Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân
hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát
triển;
-
41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13
người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul Krugman
(2008)… là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các
lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng…
Nhiều
nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế nước
Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người:
-
Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm
ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã
cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây
dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905.
Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở
Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật
“làm hộ” chuyện ấy.
-
Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ, với tài sản cá nhân lên tới 36 tỷ
USD. Nếu được chính phủ VN cho phép thì khả năng Sheldon Adelson sắp mở sòng
bạc tại thành phố Hồ Chí Minh.
-
George Soros giàu thứ 22 ở Mỹ (19 tỷ USD) không chỉ nổi tiếng về giàu có mà ông
còn là bậc thầy về những phi vụ đầu cơ đi vào lịch sử…
-
Michael Bloomberg có tài sản riêng 22 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New York
đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình
Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế.
Cộng
đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới là
quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa
số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của
tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao
hơn mức trung bình của nước này. Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ,
tới mức người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế
trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.
Nước
Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn
nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát
triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm 2011 khoảng 31.500 USD (nguồn web
CIA.gov). Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong
làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu người Ả Rập xung quanh…
Nguyên
nhân do đâu?
Vì
sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như
vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt
nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.
Để
tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên
tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại
tới ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ
gìn được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống
phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000
năm qua. Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị
tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy
nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa
họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn
vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew Bible) –
kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh
Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập
Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là
Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho
tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
Trước
hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con
người. Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì
mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền
bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong
đầu óc ta thì không ai có thể cướp nổi. Với phương châm đó, họ đặc biệt coi
trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài
ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu
nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số
ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên các trường đại học
hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn hóa nghệ thuật.
Thứ
hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc
đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm. Có lẽ sở hữu
tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài người, là
nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và
chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ
điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.”
Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá
nhân trên một hình thức cao hơn”. Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài
sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có
nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực
sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có tài sản,
tiền bạc, cùng giàu có.
Triết
gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự
giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên
thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo
Ki-tô thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường
tài sản, tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược
lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12). Ý
tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do
Thái, họ đều muốn giàu có. Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn
3000 năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham,
khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế
Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho
rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái
đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật. Những người xuất thân gia đình
giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David … đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều
phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và
đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi
phẩm chất của những người nghèo.
Trọng
tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái. Họ coi đó là phương tiện tốt nhất
để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn
tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân
bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn. Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều
biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là
sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng.
Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố định
nào. Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là bản năng kiếm tiền;
thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là cha đẻ của thuyết lưu thông
tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn
ngành ngân hàng?).
Tuy
vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do khiến người Do Thái bị chê bai.
Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô (Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ
mãi hình ảnh ông lão Do Thái Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh
đẹp và thánh thiện, lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo
báng khinh bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người
ta có cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi
của người Do Thái bị nhiều nơi lên án. Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở
Đức là đối tượng bị bọn Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người
Đức có câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào
không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó với
người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ nghĩa Do Thái.
Marx nói như vậy nghĩa là đã thừa nhận người Do Thái tham dự sáng lập ra chủ
nghĩa tư bản, một chế độ xã hội mới thay thế chế độ phong kiến và làm nên phần
chủ yếu trong cộng đồng quốc tế hiện nay. Quả thật, người Do Thái có đóng góp
rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
Kinh
Talmud viết: Mọi người phải yêu Thượng Đế với toàn bộ trái tim, cuộc đời và của
cải của mình; mỗi người đều phải quan tâm tới tài sản; không ai được phép dùng
tài sản của mình để làm hại kẻ khác và không ai được trộm cắp tài sản người
khác; tài sản của một người nhưng không phải chỉ là của người đó mà phải dùng
nó để giúp kẻ khác… Có thể hiểu “Yêu Thượng Đế với toàn bộ tài sản của mình”
nghĩa là phải sử dụng tài sản riêng của mình theo lệnh Thượng Đế, nghĩa là phải
chia bớt cho người nghèo. Quy ước này đã đặt nền móng cho tư tưởng nhân ái,
bình đẳng của văn minh phương Tây. Từ đó ta dễ hiểu vì sao cộng đồng Do Thái ở
đâu cũng giúp đỡ nhau để tất cả cùng giàu lên, không có ai nghèo khổ.
Đạo
Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con người; nói “nặng nề” vì người
giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội: họ không được bóc lột người nghèo mà
phải chia một phần tài sản của mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu
có luôn sống rất giản dị, tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ
USD (trong tổng tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái
nào không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng đồng
Do Thái lại cùng giàu có như thế.
Người
Do Thái luôn nghĩ rằng Thượng Đế giao cho họ nghĩa vụ và quyền làm giàu. Đây là
động lực chủ yếu khiến họ ở đâu cũng lo làm giàu, không bao giờ chịu nghèo khổ.
Hai nghìn năm qua, dù sống lưu vong ăn nhờ ở đợ các quốc gia khác và ở đâu cũng
bị cấm sở hữu mọi tài sản cố định nhưng dân tộc này vẫn nghĩ ra nhiều cách kinh
doanh hữu hiệu bằng các dịch vụ như buôn bán, dành dụm tiền để cho vay lãi …
Muốn
làm giàu, điều cơ bản là xã hội phải thừa nhận quyền tư hữu tài sản. Kinh
Talmud viết: ai nói “Của tôi là của tôi, của anh là của anh” (mine is mine and
yours is yours) thì là người bình thường (average); nói “Của tôi là của anh,
của anh là của tôi” thì là kẻ ngu ngốc; nói “Của tôi là của anh và của anh là
của anh” thì là ngoan đạo (godly); ai nói “Của anh là của tôi và của tôi là của
tôi” là kẻ xấu (evil). Nghĩa là họ thừa nhận quyền tư hữu tài sản là chính
đáng, không ai được xâm phạm tài sản của người khác.
Tuy
thừa nhận quyền sở hữu tài sản và luật pháp bảo vệ quyền đó, nhưng đạo Do Thái
không thừa nhận quyền sở hữu tài sản tuyệt đối và vô hạn, cho rằng tất cả của
cải đều không thuộc về cá nhân mà thuộc về Thượng Đế, mọi người đều chỉ là kẻ
quản lý hoặc kẻ được ủy thác của cải đó. Tài nguyên thiên nhiên do Thượng Đế
tạo ra là để ban cho tất cả mọi người, không ai có quyền coi là của riêng mình.
Đây là một quan niệm cực kỳ tiến bộ và có giá trị hiện thực cho tới ngày nay:
tài nguyên thiên nhiên, sự giàu có của đất nước là tài sản của toàn dân, tuyệt
đối không được coi là của một số nhóm lợi ích hoặc cá nhân.
Kinh
Talmud viết nhiều quy tắc hữu dụng về kinh doanh. Chẳng hạn:
-
Vay một quả trứng, biến thành một trại ấp gà;
-
Bán nhiều lãi ít tức là bán 3 cái (lãi) chỉ bằng bán 1 cái;
-
Mất tiền chỉ là mất nửa đời người, mất lòng tin (tín dụng) là mất tất cả;
-
Nghèo thì đáng sợ hơn 50 loại tai nạn;
-
Giúp người thì sẽ làm tăng tài sản; ki bo chỉ làm nghèo đi;
-
Chỉ lấy đi thứ gì đã trả đủ tiền cho người ta;
-
Biết kiếm tiền thì phải biết tiêu tiền; v.v…
So
sánh Cựu Ước và Talmud với Tân Ước, có thể thấy đạo Do Thái là tôn giáo của
người muốn làm giàu, còn đạo Ki-tô là tôn giáo của người nghèo. Khác biệt căn
bản ấy là một trong các lý do khiến Giáo hội Ki-tô ngày xưa khinh ghét người Do
Thái (hy vọng trong một dịp khác chúng tôi sẽ trình bày về vấn đề này).
Từ
sự phân tích sơ qua về quan điểm đối với tài sản và tiền bạc nói trên, có thể
thấy hệ thống tư tưởng của đạo Do Thái rất phù hợp với quy luật tiến hóa của
nhân loại và chính vì thế nó tạo dựng nên truyền thống văn hóa bất hủ của dân
tộc Do Thái – nền móng vững chắc làm cho dân tộc này dù phải sống lưu vong
không tổ quốc hàng nghìn năm nhưng cuối cùng vẫn là dân tộc thành công nhất
trên hầu hết các hoạt động của loài người.
Đồng
thời các nguyên lý chính của đạo Do Thái đã tác động không nhỏ tới giáo lý đạo
Ki-tô và đạo Islam; hai tôn giáo lớn này đều có nguồn gốc từ đạo Do Thái. Cuối
cùng, nhờ có những điểm độc đáo nói trên, văn minh Hebrew của phương Đông trong
quá trình giao lưu kết hợp với văn minh Hy-lạp của phương Tây đã sinh ra một
nền văn minh mới – văn minh Ki-tô giáo, sau rốt trở thành nền văn minh phương
Tây rực rỡ mấy nghìn năm nay. Có lẽ đây là thành tựu đáng kể nhất mà nền văn
minh Hebrew đã đóng góp cho nhân loại. Điều đáng nói là, do các nguyên nhân
lịch sử cực kỳ phức tạp, lâu nay người ta đã coi nhẹ nền văn minh Hebrew, và
bây giờ đã đến lúc loài người nên sửa chữa sai lầm đó.
Theo
VFPRESS
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét