HOÀNG TUẤN CÔNG
Thuốc
lào có tên chữ là “tương tư thảo” (cỏ tương tư). Ý đã trót hút vào rồi thì
không bỏ được, đêm thương ngày nhớ tựa kẻ mắc bệnh tương tư vậy.
Theo
Lê Quý Đôn, nước Nam
ta vốn không có giống thuốc ấy. Từ năm Canh Tý, niên hiệu Vĩnh Thọ (1660), đời
vua Thần Tông nhà Lê, người nước Ai Lao mang giống đến, dân ta mới đem trồng.
Quan, dân, đàn bà, con gái đua nhau hút, đến nỗi có người nói rằng: “Nhịn cơm
ba ngày còn được, chứ một lúc nhịn hút thuốc thì không được”.
Người ta tin rằng thuốc lào có thể trừ
được các bệnh phong hàn, sơn lam, chướng khí, nên thuốc mau chóng được phổ
biến. Nhưng thuốc lào đôi khi lại là nguyên nhân gây ra nạn cháy nhà lớn. Năm
Ất Tị, đời Cảnh Trị (1665), hai lần hạ lệnh nghiêm cấm hút thuốc, lùng bắt
những kẻ trồng thuốc, bán thuốc, hay hút thuốc giấu, mà không tuyệt được.
Ngày nay, ở
nhiều vùng quê, nhiều phụ nữ vẫn còn hút thuốc lào.
Vùng làng Bùi, xã Quảng Giao (Quảng Xương, Thanh Hoá) nối tiếng
về chuyện đàn bà, con gái hút thuốc lào.
Ảnh: ST
Nhiều người tài tình khoét thân tre đang sống
để làm điếu hút, hoặc chôn giấu điếu bát xuống đất, chỉ để hở miệng khỏi mặt
đất để dấm dúi hút trộm, càng sinh hoả tai. Lâu lâu, triều đình biết không thể
tuyệt được, nên lại bỏ lệnh cấm ấy. Những chiếc điếu bị vùi xuống đất, nay lại
được đào lên, lau sạch sẽ, sóng nước trong lòng điếu tiếp tục reo vang nhả
khói. Ấy mới có mấy vần thơ giải toả rằng:
“Đầu
tròn trùng trục, đít bảnh bao
Mân
mân mó mó, đút ngay vào
Thủy
hỏa tương giao sôi sùng sục
Âm
dương nhị khí sướng làm sao!”
(Khuyết
danh)
Phải chăng, chuyện chôn điếu xuống đất hút
dấm hút dúi chính là nguồn cơn sinh ra câu ca dao: “Nhớ ai như nhớ thuốc lào,
đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”? Để rồi riêng chuyện hút thuốc lào cũng có
khối bài thơ vịnh thú vị:
CÁI
ĐIẾU BÁT
Đã
nên danh giá ở trên đời
Kẻ
mến người yêu khắp mọi nơi
Đầu
mũ lưng đai ngồi chễnh chện
Lòng
sông dạ bể xiết xa khơi
Tiếng
rền réo sấm dường vang đất
Hơi
thở tuôn mây dễ ngất trời
Một
trận ra oai trong nước lặng
Ải
nam khói tắt, ngạc chìm hơi
(Khuyết danh)
CÁI XE ĐIẾU
Vốn
ở lâm-tuyền đã bấy nay
Khi
ra, dễ khiến thế gian say
Lưng
in chính-trực mười phân thẳng
Dạ
vẫn hư-linh một tiết ngay
Động
sóng tuôn mây khi chán miệng
Nghiêng
trời, lệch đất thuở buông tay
Dưới
từ giã-lục trên đền đỏ
Ai
chẳng quen hơi, mến nết này
(Khuyết danh)
Với thuốc lào, thuốc lá, "quan, dân, đàn bà, con
gái" nước Nam
vốn bình quyền. Không biết tự bao giờ, bỗng dưng trở thành đặc quyền của đàn
ông.
HTC/7/3/2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét