17 tháng 3, 2014

Học cách giáo dục của người Do Thái



Thông minh như người Do Thái
Hãy nhớ câu khen “Thông minh như Do Thái”. Quả là dân tộc Do Thái, dân tộc có chỉ số thông minh (IQ) trung bình 110 – đặc biệt là dòng Do Thái từng sinh sống vùng sông Rhin (Đức) sau đó di cư sang các nước châu Âu rồi Bắc Mỹ – là hết sức nổi bật về trí tuệ.
Nếu IQ trung bình trên thế giới là 100, nhưng dân tộc Do Thái có IQ trung bình là 110 thì điều này có ý nghĩa gì ?Một dân tộc A có chỉ số IQ trung bình là 100 thì tỉ lệ người có khả năng thành thiên tài sẽ là 0,4%, nhưng với mức 110 như người Do Thái thì tỉ lệ những người có khả năng thành thiên tài này sẽ lên tới 2,3%, nghĩa là cứ 1.000 người sẽ có 23 thiên tài, cao gấp

6 lần mức của dân tộc A kia. Vậy cho nên chỉ với 13 triệu người – chỉ bằng 0,2% dân số thế giới, số người Do Thái hay người có gốc Do Thái thành danh lại nhiều hơn bất kỳ dân tộc nào trên thế giới. Đầu thế kỷ 20, ngành khoa học hạt nhân non trẻ còn được biết đến dưới cái tên là “khoa học Do Thái”. Albert Einstein, nhà vật lý học lớn nhất thế kỷ 20 – cha đẻ của thuyết tương đối – là người gốc Do Thái. Giải Nobel vật lý được “cha truyền con nối” bởi hai cha con nhà vật lý học Niels Bohr (Henrik David và Aage) là người gốc Do Thái. Trong nửa cuối thế kỷ 20, người gốc Do Thái giành được 29% số giải Nobel văn chương, y học, vật lý và hóa học. Tính chung trong cả thế kỷ 20, tỉ lệ này là 32%. Riêng tại Mỹ trong thế kỷ 20, nơi cộng đồng Do Thái chỉ chiếm 3% dân số thì 27% giải Nobel và 25% số giải Turing – được xem là giải Nobel dành cho những người có đóng góp xuất chúng cho ngành điện toán – đã rơi vào tay người Do Thái. Trong cả 6 lĩnh vực được xét giải Nobel là văn chương, y sinh học, vật lý học, hóa học, kinh tế và hòa bình, chưa hề có một chủng tộc nào trên thế giới có thể sánh được với Do Thái bởi họ thành danh trên cả 6 lĩnh vực này. Đến năm 2011, chỉ riêng các nhà khoa học Israel (người Do Thái mang quốc tịch Israel – một quốc gia vỏn vẹn 7,8 triệu dân, xấp xỉ dân số TP. Hồ Chí Minh) đã giành đến… 10 giải Nobel.

Người Do Thái còn nổi tiếng khắp thế giới với tài buôn bán từ nhiều thiên niên kỷ nay. Ngân hàng Thế giới có các cựu chủ tịch và chủ tịch đương nhiệm như James Wolfensohn, Paul Wolfowitz, Robert Zoellick đều là người gốc Do Thái. Các lĩnh vực kinh doanh nổi bật như mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm, vũ khí, khách sạn, công nghiệp phim ảnh (kể cả Hollywood và các trung tâm điện ảnh khác) do người Do Thái nắm.
Nhà phân tâm học Sigmund Freud cũng là người Do Thái. Những người chế ra vắc xin ngừa bại liệt Jonas Salk và Albert Sabin cũng có gốc Do Thái. Đến cả nhạc sĩ thiên tài như Johan Strauss – người được mệnh danh là vua nhạc valse, tác giả bản nhạc bất hủ Sông Danube xanh, hay diễn viên nổi tiếng như Natalie Portman vừa theo học Đại học Havard vừa tham gia bộ phim siêu phẩm Chiến tranh giữa các vì sao… cũng có gốc Do Thái. Karl Marx – nhà tư tưởng để lại tên của mình cho một học thuyết vĩ đại có ảnh hưởng mạnh nhất trong thế kỷ 20 cũng là người có gốc Do Thái! Quá nửa số nhà vô địch thế giới về cờ vua là người gốc Do Thái. Và còn vô số ví dụ khác.
Người Do Thái tài giỏi, điều này không ai phủ nhận nổi, nhưng nguyên nhân là gì?
Tính hiếu học đặc biệt
Có nhiều tài liệu, công trình khoa học lý giải việc này bằng các yếu tố về gien, về hoàn cảnh lịch sử – xã hội của cộng đồng Do Thái, về tính hiếu học đặc biệt của người Do Thái. Nếu hai yếu tố đầu là các yếu tố đặc thù, không thể bắt chước được thì tính hiếu học của người Do Thái hoàn toàn có thể là tấm gương để người Việt Nam tự soi mình và noi theo. Tính hiếu học này được rèn luyện, hình thành và phát triển trong cả ba môi trường gia đình, nhà trường và xã hội.
Gia đình
Cha mẹ Do Thái vô cùng chăm lo đến việc phát triển trí tuệ của con. Bà mẹ Do Thái dạy con từ thuở còn… thai: khi mang thai, bà mẹ thường nghe nhạc, chơi đàn, hát và còn làm toán nữa cho đến khi sinh con ra. Các thai phụ làm vậy vì tin rằng cách đó sẽ làm đứa bé sau này trở nên thông minh. Người mẹ chọn ăn hạnh nhân, chà là, uống dầu cá và ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá – thật khác với thói quen thích ăn đầu cá của nhiều người Viêt Nam, cũng vì tin rằng tất cả điều đó sẽ giúp cho con trở nên thông thái. Từ lúc còn ẵm ngửa đứa bé, bà mẹ đã tạo cho con thói quen thích sách bằng cách dùng cái mẹo là nhỏ vài giọt mật lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, trong nhận thức non nớt của đứa trẻ, sách là cái gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn. Ủy ban công nghiệp thành phố New York (Mỹ) có cuộc điều tra nguồn nhân lực vào năm 1950 và nhận thấy có sự khác biệt lớn về việc đi làm công nhân giữa phụ nữ Ý với phụ nữ Do Thái. Phụ nữ Ý thường phải đi làm và thường còn bắt con nghỉ học để đi làm phụ cha mẹ, các bà mẹ Do Thái thì không. Dù kinh tế khó khăn, họ vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng, người ban ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con học. Cha mẹ Việt Nam, nhất là các gia đình ở nông thôn nên học theo các gia đình Do Thái ở điểm này. Có thể thấy ở một vài vùng miền là vùng trũng về giáo dục của nước ta, cứ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn về kinh tế là cha mẹ bắt con bỏ học để đi làm phụ giúp mình.
Nhờ sự chăm sóc, động viên của cha mẹ mà học sinh Do Thái nổi tiếng trong trường về thành tích học tập và tính chuyên cần, khác hẳn với học sinh nhiều dân tộc khác học kiểu được chăng hay chớ và dễ dàng bỏ học để đi làm với lý do phụ giúp cha mẹ. Vào năm 1954, hệ thống trường công của thành phố New York phát hiện ra 28 học sinh có chỉ số IQ cực cao – 170 điểm, thì trong đó 24 là học sinh Do Thái. Ở Việt Nam, một đứa trẻ đi học về mà được cha mẹ quan tâm thường sẽ được hỏi “Hôm nay con được mấy điểm?”, trong khi trẻ Do Thái nhận được câu hỏi “Hôm nay con có hỏi gì thầy cô không?”. Họ quan niệm điểm không quan trọng bằng cách học, mà đã học thì phải hỏi. Người Việt mình hay ghép học với hỏi thành từ học hỏi. Điều này là rất hay, mọi gia đình nên khuyến khích con em mình đặt câu hỏi.
Nhà trường
Nhà trường Do Thái không chỉ chăm bẵm lo truyền thụ thật nhiều kiến thức lý thuyết mà còn chú ý trau dồi nhân cách học sinh. Học sinh Do Thái nào cũng phải chơi nhạc cụ piano hay violon, nhờ đó mà khả năng cảm thụ cái đẹp và sự nhạy cảm được bồi bổ. Qua học bắn cung, bắn súng hay chạy bộ, trẻ em luyện được khả năng tập trung và tính kiên trì. Học sinh Israel dùng hai ngôn ngữ chính thức là tiếng Do Thái và tiếng Arập. Tiếng Do Thái là ngôn ngữ chính và thứ nhất của quốc gia, được đa số dân cư sử dụng. Tiếng Arập là của thiểu số người Arập và một số thành viên cộng đồng Do Thái. Tiếng Anh được dạy trong các trường học và đa phần dân cư coi đó là ngôn ngữ thứ hai. Do đặc điểm dân cư tụ về quốc gia này vốn sinh sống từ nhiều nước nên các ngôn ngữ khác được dùng ở Israel còn có tiếng Nga, tiếng Pháp và một số ngôn ngữ khác. Thông thường, học sinh Israel có thể nói được ba thứ tiếng. Nếu thành ngữ Pháp “Một người biết thêm ngôn ngữ thứ hai thì bằng hai người” là đúng thì một trẻ em Israel sẽ có thể bằng… ba người. Tính dạn dĩ của học sinh luôn được khuyến khích bởi người Do Thái quan niệm hỏi cũng quan trọng như trả lời. Hỏi quan trọng không kém đáp bởi đòi hỏi khả năng quan sát và suy nghĩ, công cụ quan trọng để chiếm lĩnh tri thức. Chẳng lạ gì mà người Do Thái luôn nổi bật về tính độc lập suy nghĩ và tài lập luận.
Nhà trường Do Thái rất coi trọng tính thực hành. Trong thời khóa biểu, ngoài các môn học thường gặp ở mọi nhà trường, cấp tiểu học Do Thái còn có môn kinh doanh. Từ trung học, học sinh học giảm dần các môn lý thuyết mà chuyển dần qua học cách tạo ra “sản phẩm” với các bài tập thực tế. Tất cả “sản phẩm” của học sinh dù còn ngây ngô nhưng đều là những thử thách thật sự nghiêm túc với người tạo ra chúng và những sản phẩm có ý tưởng tốt có thể được giới thiệu lên các viện hay trường đại học để khai thác. Trong khi đó thì cách dạy – cách học và nội dung học nhà trường của Việt Nam từ phổ thông đến đại học đều chăm bẵm nhồi nhét cho học sinh lý thuyết suông, song người học khi ra đời thì lóng ngóng không biết áp dụng thế nào hoặc có khi lại còn không muốn áp dụng.
Xã hội
Xã hội Do Thái là một xã hội đặt trí tuệ vào bậc cao nhất trong thang giá trị. Do vậy mà cứ điều gì có hại cho trí tuệ là người Do Thái cố tránh, có lợi cho trí tuệ thì họ cố làm, từ chuyện “vặt” như hút thuốc lá đến chuyện trọng đại như lập gia đình. Người Do Thái rất bài trừ thuốc lá, cho nên dù là khách quý vào nhà mà hút thuốc cũng sẽ bị chủ nhà lịch sự mời ra ngoài. Đơn giản bởi các nhà khoa học Do Thái chứng minh rằng nicotine trong thuốc lá làm thoái hóa tế bào não. Hãy nhìn ra xã hội Việt Nam, thuốc lá bán khắp nơi và số người hút không hề giảm sau bao lời cảnh báo về tác hại của thuốc lá; ở nhà thì đàn ông tự do hút thuốc, tự do đầu độc não con em mình bằng nicotine. Người Do Thái có uống rượu nhưng rất chừng mực vì sợ uống nhiều sẽ bị dư luận xã hội chỉ trích, sợ bị nhà thờ trừng phạt, sợ hại trí tuệ bởi lượng rượu uống kiểu người nghiện sẽ làm chết các tế bào não. Rượu cồn là thứ thuốc độc thực sự, vậy mà ở Việt Nam, các nhà máy bia cứ đua nhau mọc lên và mở rộng sản xuất, nên người Việt Nam thuộc loại có thứ hạng cao trên thế giới về số lít bia rượu tiêu thụ theo đầu người; trong nhà, ngoài quán, người Việt ta cứ ép nhau, thách nhau uống, xem có tửu lượng cao là thành tích, không hề cân nhắc hậu quả mà mình cùng vợ con, cháu chắt và xã hội sẽ phải gánh.
Xã hội Do Thái từ rất sớm đã rất coi trọng việc xóa mù chữ, coi trọng sách và người có học thức. Dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới – từ năm 64 đầu Công nguyên – mà nhà thờ quy định tất cả nam giới phải biết đọc viết và tính toán; sang thế kỷ thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết, tính toán. Như vậy họ đã thực hiện phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc khác hàng mười mấy thế kỷ. Israel là nước đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng đầu về số đầu sách xuất bản theo đầu dân. Không một người Do Thái thành đạt nào lại không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu hiểu biết. Ngay cả tại nghĩa trang, người ta cũng để sẵn sách vì tin rằng những đêm có trăng, các linh hồn sẽ ra đọc sách. Thì ra trong lúc người Viêt Nam ta đang kêu gọi hãy đọc sách và học suốt đời thì người Do Thái đã thực hiện học… quá đời! Dân tộc Do Thái coi trọng học giả, coi trọng người thầy. Họ phản ánh sự tôn trọng trong câu đố cho trẻ con là “Nếu thầy và cha con bị bắt mà con chỉ có thể cứu được một người thì con cứu ai?” và đáp án đúng là cứu thầy – vì thầy truyền đạt tri thức cho xã hội. Tri thức được trọng vọng hơn của cải, hơn cả chức tước, là điều khác hẳn với quan niệm của số đông người Việt Nam hiện nay. Do vậy người Do Thái sẵn sàng hy sinh cả gia tài để được làm thông gia với gia đình trí thức. Theo truyền thống, hôn nhân giữa người thuộc gia đình người có học thức cao với thành viên gia đình thương gia là một cuộc hôn nhân lý tưởng, làm cho việc kinh doanh càng trở nên có trí tuệ hơn. Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.
Người Do Thái đã tự khai sáng mình ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người như vậy đấy và thành quả mà con cháu họ đạt được ngày nay trong nhiều lĩnh vực đời sống là kết quả tất yếu, là sự tưởng thưởng xứng đáng. Người Việt Nam phải phục họ thì không có gì phải xấu hổ. Người Việt Nam cần quyết tâm tự khai sáng noi theo dân tộc Do Thái, cùng đồng tâm nhất trí loại trừ những thói quen gây hại cho việc phát triển trí tuệ trong cả ba môi trường giáo dục là gia đình, nhà trường và xã hội, cùng nhau hình thành thang giá trị mới, trở nên thật sự hiếu học và có thói quen học suốt đời.

H.T.H.
* Năm 2011, chỉ riêng các nhà khoa học Israel đã giành đến… 10 giải Nobel.
* Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.

THEO TS. HỒ THIỆU HÙNG 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét