Trần Quốc
Toản, vị anh hùng trẻ tuổi mà chúng ta được học trong các bài học lịch sử
khi còn nhỏ, là một tấm gương sáng cho bao thế hệ trẻ Việt Nam suốt hơn
700 năm qua. Tuy nhiên có nhiều điều về vị anh hùng trẻ tuổi này mà chúng
ta chưa biết, nhất là về cái chết của ông. Có phải ông đã mất năm 1285
trong cuộc kháng chiến chông quân Mông - Nguyên lần thứ hai như sử sách đã
ghi? Vì sao ông lập được nhiều chiến công nhưng không được phong tước
vương mà chỉ được phong tước hầu?
Bài học lịch sử thuở nào
Chúng ta đã từng được học về Trần Quốc Toản trong các bài học lịch sử ở bậc
Tiểu học như sau: Năm 1282 vua Trần Nhân Tông tổ chức hội nghị Bình Than
họp mặt các vương hầu để bàn cách chống giặc Mông-Nguyên. Được tin, Hoài
Văn hầu (1) Trần Quốc Toản cùng với Hoài
Nhân vương Kiện cưỡi ngựa đến Bình Than tham dự. Nhưng đội quân thánh dực của
vua Trần Nhân Tông ngăn lại không cho vào vì Quốc Toản còn nhỏ, chưa đủ
tuổi bàn việc nước.
Quốc Toản tức lắm, tay cầm trái cam bóp nát đi lúc nào không biết.
Sau đó chàng về tập hợp người thân và gia nhân của mình, mua vũ khí sắm chiến
thuyền và luyện tập võ nghệ chờ ngày đánh giặc. Chàng cho may một lá cờ
thêu sáu chữ vàng "Phá cường địch báo hoàng ân", nghĩa là
"Phá giặc mạnh báo ơn vua" để làm cờ hiệu riêng cho đội quân
mình. Đội quân của chàng đã giúp tướng Trần Nhật Duật (2) đánh lui
quân giặc trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai và chàng
cũng đã tử trận trong trận chiến này.
Cuộc đời Trần Quốc Toản
Theo như kết quả những nghiên cứu gần đây, Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản là con
của Vũ Uy vương Trần Nhật Duy (3) và vương phi Trần Ý Ninh (4).
Trần Nhật Duy là con trai vua Trần Thái Tông nên Trần Quốc Toản là cháu
nội của vua Trần Thái Tông, vị vua Trần đầu tiên của nước ta.
Khi quân Mông Cổ xâm chiếm Đại Việt lần thứ nhất (1257-1258), Trần Nhật Duy
đang làm Tổng trấn biên giới phía Bắc. Sau chiến thắng quân Mông Cổ lần
thứ nhất năm 1258, vua Trần Thánh Tông (5) cử Trần Nhật Duy và
vợ là Trần Ý Ninh cùng một số tướng lãnh sang giúp nhà Tống, vì nghĩ rằng nếu
Mông Cổ tiêu diệt nhà Tống thì quân Mông Cổ sẽ kéo quân sang đánh Đại Việt lần
nữa.
Trần Quốc Toản được mẹ sinh ra ở đất Tống vào năm 1267. Ông có nhiều bạn bè là
con cháu trong hoàng tộc nhà Tống. Năm 1279, sau khi nhà Tống bị nhà
Nguyên tiêu diệt hoàn toàn, một số người Tống kéo sang Đại Việt lánh nạn
và giúp nhà Trần đánh giặc Mông - Nguyên. Một đội quân do hoàng tử Tống
tên là Triệu Trung cầm đầu chiến đấu dưới sự chỉ huy của Chiêu Văn vương
Trần Nhật Duật. Em của hoàng tử Triệu Trung là công chúa Triêu Ngọc Hoa cùng
chiến đấu trong đội quân này. Trần Quốc Toản cũng cầm đầu một đội
quân khác chiến đấu dưới sự chỉ huy của tướng Trần Nhật Duật. Sau đó Trần
Quốc Toản và Triệu
Ngọc Hoa cảm mến, yêu thương nhau và hai người thành vợ chồng.
Vì lấy vợ Tống, cho nên mặc dù trung nghĩa và lập được nhiều chiến công nhưng
Trần Quốc Toản chỉ được phong tước hầu (Hoài Văn hầu) chứ không được phong tước
vương (6).
Nghi vấn về cái chết của Trần Quốc Toản
năm 1285
Về cái chết của ông, theo chính sử Việt Nam ghi lại thì ông mất năm 1285 nhưng
không nói rõ ông mất ở đâu, trong trận nào (7). Riêng các quyển
sử của nhà Nguyên viết rằng ông chết trong trận đánh ở sông Như Nguyệt (8).
Nhưng theo gia phả của hậu duệ Trần Ích Tắc (chú Trần Quốc Toản) để lại
thì Trần Quốc Toản cùng vợ trở về Trung Quốc khởi binh khôi phục triều
Tống (9). Riêng gia phả của hậu duệ Trần Quốc Toản mang tên "Viêm phương Trần
tộc
Lưu phả"
và mộ chí ở Trung Quốc (10) vừa tìm thấy được có nói về người vợ
Tống của ông là vị công chúa cuối đời Tống tên Triệu Ngọc Hoa. Trong gia
phả và mộ chí này có nói rằng Trần Quốc Toản sống rất thọ và mất ở Tống
chứ không phải chết trong trận đánh với quân Nguyên năm 1285 như chúng ta
đã biết.
Đinh Ngọc Thu
______________________
Ghi chú:
(1) Hoài
Văn hầu: Hoài Văn là tước hiệu, hầu là tước hầu. Dưới thời nhà Trần,
những người thuộc bà con dòng họ của vua thường được phong tước vương và
hầu. Tước vương chính là tước công, tước cao nhất trong 5 tước quan đại thần
mà triều đình ngày xưa đặt ra: công, hầu, bá, tử, nam.
(2) Trần Nhật Duật: là con của vua Trần Thái Tông với một người vợ
thứ của vua. Trần Nhật Duật có tước là Chiêu Văn vương
(3) Trần Nhật Duy: có tước hiệu là Vũ Uy vương. Ông là con trai lớn
tuổi nhất của vua Trần Thái Tông nhưng vì ông là con của một bà vợ thứ của
vua nên không phải là con trưởng.
(Dưới thời vua Lý Thái Tổ, có một người anh của vua cũng được phong tước Vũ Uy
vương)
(4) Trần Ý Ninh: Theo GS Trần Đại Sĩ thì bà là em gái của Trần
Tử Đức. Hai người là con của ông Trần Hiến và bà Lê Thị Đạt. Khi Trần Thủ
Độ ép Trần Liễu nhường vợ của mình là công chúa Thuận Thiên cho vua Trần
Thái Tông - Trần Cảnh, Trần Liễu nổi loạn đem quân tấn công triều đình.
Trần Hiến chỉ huy binh lính của Trần Liễu tấn công phủ của Thái sư
Trần Thủ Độ. Sau khi Trần Liễu đầu hàng, toàn bộ binh lính dưới quyền của
ông bị sát hại trong đó có vợ chồng Trần Hiến.
(5) Trần Thánh Tông: là vua thứ hai dưới thời nhà Trần. Trên thực
tế ông không phải là con trai lớn hay con trưởng của vua Trần Thái Tông nhưng
ông là con trai đầu của vua Trần Thái Tông với bà hoàng hậu Thuận Thiên
nên được nối nghiệp cha. Con lớn tuổi nhất của vua Trần Thái Tông là Trần
Nhật Duy nhưng vì ông là con của bà vợ thứ nên không phải là con trưởng.
Về danh nghĩa, con trưởng của vua là Trần Quốc Khang nhưng thật ra Trần
Quốc Khang là con ruột của Trần Liễu với bà hoàng hậu Thuận Thiên nên
không được nối ngôi.
(6) Theo GS Trần Đại Sĩ: “Hoài Văn trung nghĩa, đại công nhi bất vương do thú ư
ngoại nhân", Nghĩa là: Hoài Văn hầu mặc dù trung nghĩa và lập được đại
công, nhưng không được phong tước vương vì lấy vợ nước ngoài.
(7) Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết dựa theo quyển Đại Việt
Sử Ký của Lê Văn Hưu và Đại Việt Sử Ký Tục Biên của Phan Phu Tiên nói về
đoạn cuối cuộc đời của Trần Quốc Toản như sau: “Sau này, khi đối trận với
giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải lui tránh,
không dám đối địch. Đến khi mất, vua rất thương tiếc, thân làm văn tế”.
(8) Theo An Nam truyện của Nguyên sử có ghi: "Quan quân đến sông Như
Nguyệt, thì Nhật Huyên sai Hoài Văn hầu đến đánh... Theo Kinh Thế Đại Điển
Tự Lục trong Nguyên sử có viết :"...Đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên
sai Hoài Văn Hầu đến đuổi thì bị giết".
(9) Gia phả này do GS Trần Đại Sĩ tìm đọc của hậu duệ Trần Ích Tắc hiện còn
sống bên Trung Quốc.
(10) Hai tài liệu này do cô Vũ Khánh Ngọc, du học sinh tại tỉnh Phước Kiến,
Trung Quốc tìm giúp GS Trần Đại Sĩ.
1) Năm
trang gia phả mang tên Viêm phương Trần tộc Lưu phả của hậu duệ Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản.
2) Ảnh chụp mộ chí nội dung nói về một vị công
chúa
cuối đời Tống kết hôn với Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản.
(Tài liệu không có 2 ảnh nói trên)
(11) Độc giả nên cẩn thận suy xét khi đọc quyển sử
này vì khi viết Lê Tắc là phiên thần nhà Nguyên, mặc dù trước đó ông là
con dân Đại Việt. Lê Tắc là gia thuộc của Trần Kiện.
Khi Trần Kiện đem cả nhà đầu hàng Toa Đô, Trần
Kiện bị gia tướng của Trần Hưng Đạo là Nguyễn Địa Lô (có sách nói Nguyễn Thế
Lộc) giết chết, Lê Tắc cướp được xác Trần Kiện.
Sau đó Lê Tắc trốn sang Trung nguyên và viết bộ sử này.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét