8 tháng 1, 2021

 NỤ HÔN ĐẦU.

Tác giả: Phan Chi


Anh bộ đội (ảnh minh họa)

Thành được đơn vị cho về phép 3 ngày trước khi chuyển đi nhận nhiệm vụ mới. Anh gò lưng đạp xe ngược gió trên đê sông Đuống, nóng lòng về gặp mẹ và các em trong gian nhà một mái cũ kỹ trên đường Hàng Buồm. Từ khi nhập ngũ anh sinh viên Bách Khoa lần đầu tiên được về thăm nhà, may mượn được xe của đại đội phó đồng hương Hàng Buồm với anh.

Bỗng có tiếng thất thanh :

- Có người chết đuối !

Anh vứt xe lao ra bờ sông, thấy mái tóc con gái đang nhấp nhô trong nước. Anh chạy vài chục mét xuôi dòng rồi mới nhảy xuống sông đón lõng nạn nhân đã đuối sức.

Mươi phút sau anh bế được cô lên bờ, làm đúng các động tác cứu người đuối nước đã được học. Anh làm hô hấp nhân tạo, hai tay đè lên ngực cô rồi ghé môi thổi ngạt.

Mấy người làng nghe tiếng kịp chạy tới giúp một tay. May quá cô gái đã tự thở được.

Đã có dân làng giải quyết, Thành vội lên xe đạp về Hà Nội. Anh không ngờ cái đụng chạm thể xác đầu tiên, nụ hôn môi đầu tiên với một cô gái lại xảy ra như vậy, không chút lãng mạn nào.

Ngày trả phép, anh lại đạp xe trên đê sông Đuống. Đi qua đoạn anh từng dừng lại cứu cô gái, chân anh như đạp chậm lại. Anh nhớ khuôn mặt tái nhợt nhưng vẫn xinh đẹp của cô và thấy có cái gì đó là lạ trong lòng.

Đến một quán nước dưới gốc đa gần đó, anh rẽ vào nghỉ chân. Mấy ông nông dân làm đồng về đang tán chuyện hút thuốc lào vặt.

Qua câu chuyện của họ anh biết cô tên Chanh ở xóm Bãi hôm kia suýt chết nếu không được anh bộ đội cứu. Thành cúi mặt sợ nhỡ có ai nhận ra mình chính là anh bộ đội hôm trước. Nhưng anh đã biết cô tên Chanh, người xóm Bãi.

Câu chuyện trên xảy ra mùa hè năm 1972. Ngay sau khi trả phép, Thành cùng đơn vị hành quân vào Nam, hoạt động ở miền tây Thừa Thiên. Trong ba lô của anh không có bức ảnh cô gái nào nhưng trong lòng anh là hình ảnh mơ hồ của cô Chanh bên bờ sông Đuống. Anh tưởng tượng nếu cô cười thì sẽ ra sao và những đêm nằm trên võng nghe tiếng mưa rơi lên tấm tăng, anh mơ về nụ cười đó.

Sau tháng 3 năm 1975, đơn vị anh làm nhiệm vụ quân quản một thời gian rồi được chuyển ra Bắc. Thủ trưởng đại đội phó đồng hương phố Hàng Buồm với anh giờ là tiểu đoàn trưởng, ông bảo bọn tao già rồi, chúng mày còn trẻ phải đi học về xây dựng đất nước. Thế là Thành được quay lại giảng đường đại học Bách Khoa.

Hình ảnh Chanh trong anh không phai mờ, nó chỉ chìm xuống dưới bao nhiêu bộn bề lo âu. Mà cũng vô duyên, Chanh không hề biết mặt anh, nếu có nhớ thì nhớ đến anh bộ đội Cụ Hồ chung chung đã cứu mạng mình. Cô ấy đâu có tình cảm gì với anh.

Song cái cảm giác lần đầu đặt môi lên môi một người con gái nó vẫn không quên anh.

Ra trường anh về một công ty xây lắp điện ở tít Tây Nguyên, lấy vợ, sinh con lập nghiệp ở đó. Nhờ bạn bè  hỏi giúp anh biết Chanh lấy một anh thương binh người cùng làng, gia đình cũng giống mọi gia đình chồng thương binh vợ chân quê khác, nghĩa là vất vả mọi bề.

Thành nhắn với anh bạn đồng môn giờ làm Giám đốc Điện lực Bắc Ninh rằng Thành không xin nhưng nếu con cô Chanh xin vào Điện lực thì bạn lưu ý giúp. Ông bạn kia làm vượt mức yêu cầu, cho người về tận làng Chanh tuyển con cô ấy vào làm.

Lần thứ hai Chanh không hề biết người cứu giúp mình là ai.

Thành về hưu gần chục năm nay. Anh con trai Hàng Buồm định cư ở Buôn Mê Thuột, nơi có vườn cà phê và nấm mồ người vợ đã bỏ anh đi xa vì bị ung thư.

Được biết chồng Chanh đã chết do sức khỏe kém, anh muốn nhân ra Bắc thăm mẹ và các em thì tìm gặp Chanh một lần trong đời. Anh mượn xe máy, chạy lại con đường đê năm xưa nay đã trải nhựa, về xóm Bãi. Gần 50 năm trôi qua, cảnh vật thay đổi nhiều quá, duy cây đa vẫn còn và quán nước thì được xây gạch.

Thành ghé quán nước, gọi chén nước vối, mượn cái điếu rít một hơi mà ông chưa từng hút lại từ thời giải ngũ.

Thuốc làm ông say, ông dựa lưng vào tường, mắt phóng về dốc đê nơi ngày xưa ông cứu Chanh. Vạt cỏ nơi ông đặt nàng xuống và làm hô hấp cho nàng.

Ông bỗng bắt chuyện với cô hàng nước:

  Khoảng năm mươi năm trước tôi có ngồi uống nước ở đây, không biết bà cụ bán nước ngày ấy giờ còn không?

  Bà nội cháu đấy ông ạ, bà còn sống nhưng mắt loà không nhìn thấy gì nữa rồi.

Có một điểm chung là bà cụ, câu chuyện dễ dàng hơn, ông Thành mạnh dạn hỏi về bà Chanh.

  Có phải bà Chanh vợ ông Đảnh thương binh không?

  Và có đứa con làm bên Điện lực.

  Cháu biết, bà ấy bị hẹp van tim sau đó phải về Hà Nội chữa hơn tuần nay rồi.

Thành ngồi nán một lúc rồi lên xe ra về. Quả thực ông không biết là nếu bà Chanh không đi viện thì ông có dám vào nhà gặp bà hay không. Ông quá già, bà cũng già và ốm yếu. Liệu có nên nhìn thấy bà ngày nay làm hỏng mất hình ảnh bà ngày xưa đã bám chắc vào đáy trái tim ông?

Ông quyết định chạy về Từ Sơn, thăm ông bạn Giám đốc Điện lực Bắc Ninh nay cũng đã về hưu.

Hai thằng cùng học Bách Khoa, cùng đi lính rồi cùng về học lại Bách Khoa chẳng cần khách sáo. Bạn bảo vợ làm cơm rượu, hai ông trò chuyện mày tao vui lắm.

Gần cuối chiều ông Thành mới hỏi bạn có nhớ cái thằng ở xóm Bãi hai mấy năm trước ông nhận vào làm chứ?

  Nhớ, thằng đó làm việc được.

  Ông có thể liên lạc với nó không?

  Tôi nhờ anh em Văn phòng tìm chắc ra.

  Vậy tôi nhờ ông một việc. Mẹ thằng đó đang nằm viện chữa tim, có thể phải đặt stent. Tôi nhờ ông chuyển cho thằng con số tiền hỗ trợ mẹ nó chữa bệnh.

Ông bạn nhận lời, không thắc mắc quan hệ giữa ông Thành với bà Chanh là như thế nào, đúng kiểu lính.

Ông Thành gửi phong bì 100 triệu, dặn nói với con trai bà Chanh là tiền của anh bộ đội đã cứu bà bị đuối nước mùa hè năm 1972.

Ai cũng có nụ hôn đầu đời, ông Thành cũng có vậy!

6 tháng 8, 2020

CHUYỆN CƯỜI DÂN GIAN


Xưa có một ông nhà giàu sinh được hai người con gái, cô chị gả cho người làm ruộng, cô em gả cho một người học trò.

Một hôm thong thả, bố vợ cùng hai con rể đi chơi. Ông bố vợ nghe ngỗng kêu mới hỏi:

- Làm sao tiếng nó to thế?

Người học trò nói chữ:

- Trường cổ tắc đại thanh (Cổ dài tất to tiếng).

Người làm ruộng nói:

- Trời sinh ra thế!

Đi được một quãng, thấy mấy con vịt đang bơi dưới ao, ông bố lại hỏi:

- Tại sao nó nổi?

Anh học trò lại nói chữ:

- Đa mao thiểu nhục tắc phù (nhiều lông ít thịt tất nổi).

Người làm ruộng trả lời:

- Trời sinh ra thế!

Đi được khoảng nữa, thấy hòn đá nứt đôi, ông bố lại hỏi:

- Sao đá bị nứt thế?

Người học trò lại nói:

- Phi nhân đả tắc thiên đả (Chẳng người đập cũng trời đánh).

Người làm ruộng vẫn nói:

- Trời sinh ra thế!

 

Đến lúc về nhà ba bố con ngồi uống rượu. Ông bố khen anh rể học trò hay chữ và chê con rể làm ruộng dốt. Người con rể làm ruộng mới tức mình hỏi người học trò:

- Tôi thì dốt thật, nhờ chú cắt nghĩa "trường cổ tắc đại thanh" lại nghe coi.

Người học trò đáp:

- Cổ dài thì to tiếng.

Người làm ruộng bẻ lại:

- Thế con ếch, con ễnh ương cổ đâu dài mà tiếng cũng to?

Người nông dân nói tiếp:

-Chú nói "đa mao thiểu nhục tất phù" (nhiều lông ít thịt thì nổi). Thế con thuyền lông đâu thịt đâu mà cũng nổi?

Người học trò lại cứng họng lần nữa. Người làm ruộng đắc thắng, tiếp tục hỏi:

- Còn tảng đá, chú nói “Phi nhân đả tất thiên đả” là gì?

Người học trò ngập ngừng giải thích:

- Nghĩa là nếu không do người đánh nứt thì cũng do sét đánh.

Người làm ruộng bẻ lại:

- Thế chứ cái… ấy của các cô, các bà, của mẹ cậu, có ai “đả” không mà nó cũng nứt?

 

Lúc đó ông bố vợ mới gật gù nói:

- Ừ, dốt đặc còn hơn là chữ lỏng!

 

 


19 tháng 5, 2020

HAI NGƯỜI ĐÀN BÀ (3)


II- NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐƠN THÂN

Đinh Tiến Hùng
-     Phần 2

" Năm 1979 vừa tròn 19 tuổi, em tốt nghiệp sư phạm cấp 1 của tỉnh lên huyện mình công tác. Tuy phải xa nhà, xa mẹ hơi buồn nhưng tuổi trẻ hừng hực sức sống nhiệt huyết "chân bước đi đầu không ngoảnh lại". Em được phân công về xã Nậm Roong dạy. Nậm Roong tuy là xã sát quốc lộ nhưng trung tâm xã lại cách đường 5 km. Đường vào xã là đường dân sinh, xe ô tô không vào được, từ trung tâm xã đến các thôn bản chỉ đi bộ. Dân số ít, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số ở rải rác chia thành 10 thôn. Từ chỗ em ra đường lớn mất 5 km, ra huyện đi 30 km nữa. Từ khi em nhận công tác đến khi em chuyển vùng em chỉ đến huyện 2 lần. Lần đầu nhận công tác, lần 2 làm thủ tục chuyển vùng. 3 năm học đầu em dạy ở điểm trường chính, đến năm học thứ tư trường chuyển em vào điểm trường lẻ theo quy định luân phiên. Điểm trường lẻ cách trung tâm 3 km. Câu chuyện "tày đình" xảy ra ở năm học này, anh ạ.
9 đứa con gái chúng em cùng lên huyện mình dạy học thì 8 đứa dạy ở các trường có các đơn vị bộ đội đóng trên địa bàn. Nên đến năm thứ ba chúng nó có chồng hết. Chỉ còn mình em...Cùng lúc đó hạt kiểm lâm huyện điều một anh bộ đội vừa ra quân đến xã em lập trạm. Trạm là căn nhà đất vách nứa đơn sơ. Trạm của anh ngay cửa rừng cách lớp em 20m. Hàng ngày hàng xóm của em đi kiểm tra rừng, đến 2 xã bên cạnh hoặc làm việc ngoài Ủy ban xã. Qua anh nói chuyện em biết anh có vợ và 2 con, chiều thứ bảy là anh nhờ em trông giúp cái trạm của anh. Trạm có gì đâu phải trông hả anh: một cái tủ 3 ngăn không cánh xã cho, 1 cái giường tre ọp ẹp, 1 cái ấm đun nước, 1 cái nồi nấu cơm, 1 cái xoong nấu thức ăn.
Mấy ngày đầu mới đến trạm anh tự nấu ăn, sau em bảo anh để em nấu ăn chung.
. Anh đưa gạo, đưa tiền ăn cho em. Như anh biết đấy, lúc đó nhà nước quản lý lương thực, thực phẩm; đất nước khó khăn, mọi nhà đều nghèo, đều thiếu thốn. Em bảo anh ấy chỉ đưa đủ lượng lương thực những bữa em nấu, còn tiền thì em không nhận vì rau em trồng được. Bữa ăn toàn rau với canh rau, thi thoảng vào bản mua được con gà, con vịt mổ thì hôm ấy là cỗ. Anh sống mực thước, chăm chỉ, hiền lành. Anh là người yêu vợ thương con, nhiệt tình công tác và có trách nhiệm trong công việc.
  Con gái ngoài 20 tuổi sống nơi heo hút thui thủi, chỉ buổi sáng cùng đám học sinh nhí nhảy là vui. Ngày lại ngày công việc lặp đi lặp lại. Các anh giáo viên trường em đều có gia đình cả, trai bản đi bộ đội hoặc đi công tác, chỉ có mấy cậu choai choai không việc làm. Anh ạ, có ngày chủ nhật em không nhìn thấy người nào qua trường. Có đợt em nghe nói xe chở bộ đội lên biên giới nhiều lắm. Em đi bộ ra quốc lộ thấy từng đoàn xe chở bộ đội lên phía bắc. Em vẫy các anh, các anh vẫy lại, trêu đùa em, em thấy vui. Thương các anh quá, lên biên giới là gian khổ, là trận mạc, thương vong. Đoàn xe đi hết em thui thủi về trường nằm trên giường khóc. Các anh bộ đội chịu bao gian khổ nhưng có đồng đội bên cạnh. Em chỉ có một mình. Em lại nhớ mẹ, nhớ nhà. Em chỉ mong có một phép màu nào đó có một đơn vị bộ đội đóng ở xã em đang dạy học.

Em cần một chỗ dựa, một bờ vai, em khao khát yêu đương, em khao khát vòng tay người đàn ông ôm em thật chặt.
Em không có người yêu ngóng đợi mong chờ; em không có những cánh thư mang thông điệp yêu đương; em không có những lời nói yêu thương ngọt ngào đôi lứa; em không có những nụ hôn cháy bỏng đầu đời;... Chỉ có mùi mồ hôi anh ấy làm em mê mẩn.

  Một buổi tối em và anh ngồi chơi ở sân lớp rì rầm nói chuyện. Xung quanh là rừng. Vầng trăng hạ huyền toả ánh sáng xuyên qua màn sương rừng mờ ảo. Thỉnh thoảng con chim rừng cất tiếng “Bắt cô trói cột...năm trâu sáu cọc”. Không gian tĩnh mịch trong khung cảnh rừng núi…càng tĩnh mịch, cô tịch hơn.
Không gian như im ắng, em và anh như cùng theo đuổi ý nghĩ riêng. Em ước gì anh chưa có gia đình, chúng em sẽ xây tổ ấm dù cuộc sống có vất vả nhưng yêu nhau là sẽ có động lực vượt lên tất cả. Chúng em có nhà riêng ở quê anh, chúng em sẽ có hai đứa con, một gái một trai, hàng ngày chúng đến lớp, về đến nhà hai đứa bi bô chào bố mẹ… Mùi mồ hôi của anh làm em quen mất rồi.

 Bỗng cơn mưa rừng kéo đến, trăng đang sáng mờ ảo đã chuyển đêm rừng, sấm chớp ầm ầm. Em và anh chỉ kịp chạy vào phòng em. Gió thổi cây rừng rào rào, thổi tắt ngọn đèn dầu, gió đập vào phên lứa, kéo giật cánh cửa. Anh nhanh tay gài chặt cánh cửa. Ngoài trời mưa, sấm, chớp cứ ào ào…
Cái khát khao đàn ông trong em trỗi dậy. Em ôm chặt lấy anh, càng ôm càng chặt, em ghì anh ấy vào em. Em chỉ nghe thấy tiếng mình: “Anh…anh…”.

Sáng hôm sau anh đi sớm, anh đi ba ngày mới quay về trạm. Chúng em nhìn nhau ngượng ngịu. Em nấu cơm cho anh. Em biết anh đang dằn vặt mình…
Còn em đang nghe cơ thể mình…lo lắng…
Anh trầm đi, ít nói, ít cười. Trước kia anh hay cười, hay nói lắm, hay kể chuyện bộ đội, kể chuyện hài.
Một hôm anh hỏi em: “Có à”
Em gật đầu. Như đã chuẩn bị sẵn, anh không tỏ ra hốt hoảng. Nằm bên anh, em nghe rõ tiếng thở dài của anh, tiếng thở bần thần, lo lắng; tiếng cựa mình cố đi vào giấc ngủ của anh. Em ôm anh, nước mắt em trào ra, mình thương lấy mình.

Bẵng đi gần một tháng anh không có mặt ở trạm, sau có một anh khác đến thay anh. Em biết được anh đã thôi việc. Một buổi chiều anh đạp xe đến gặp em.
Anh nói: Anh có lỗi với em, anh không thể đi cùng em vì anh còn gia đình, còn các con anh.
Anh nói: Chúng ta đã sai, nhất là anh.
Anh nói: Sau này em sẽ sinh con, nó không được sinh ra từ tình yêu của bố mẹ nhưng nó sẽ được hưởng tình yêu thương nhân hậu của mẹ.
Anh nói: Em một mình nuôi con vất vả lại chịu điều nọ tiếng kia; em hãy cố gắng, anh mong em cố gắng…
Anh nói nhiều lắm…em chỉ nghe được vậy. Mắt em nhòa đi, em ôm anh khóc…
Em ngừng cơn khóc, lau nước mắt, em giục anh về.
Anh để lại ba tháng lương của anh trong phong bì đặt dưới gối của em.

Anh là người mẫu mực, sống mực thước, chăm chỉ, hiền lành; anh là người anh hùng của trận mạc, của đời chinh chiến. Đời là vậy… “anh hùng khó qua ải mỹ nhân”.

Ngay trong cuộc họp hội đồng nhà trường tháng đó em đã báo cáo trước hội đồng là em có thai. Em nhận lỗi vì không giữ được sự vẹn tròn nhân cách một cô giáo, nhưng em mong mọi người thông cảm tha lỗi cho em; em sẽ chịu hình thức kỉ luật đối với em, nhưng em mong ngành đừng bắt em bỏ nghề dạy học.
Cả phòng họp lặng đi, không phải vì các anh, các chị bây giờ mới biết mà do em mạnh dạn, thắng thắn trước hội đồng. Anh hiệu trưởng động viên em cứ yên tâm công tác, anh sẽ báo cáo việc này lên phòng Giáo dục và có hướng giải quyết.  

Em viết thư về cho mẹ, con cần mẹ, chỉ mình mẹ thôi, mẹ hãy lên với con. Linh cảm có điều gì với em, mẹ em lên ngay. Nhìn thấy em là mẹ khóc.                                                                                                                             Nước mắt em trào ra cố nói: Mẹ! Mẹ đường khóc.
Mẹ ôm em, em ôm mẹ; mẹ khóc, em khóc. Hai mẹ con ôm nhau khóc.
Nằm bên em mẹ hỏi: Người đó ở đâu?                                                   Em nói: Mẹ đừng hỏi.                                                                                   Mẹ hỏi tiếp: Người đó có gia đình rồi phải không?                        Em: Vâng.                                                                             Lặng đi hồi lâu, mẹ lên tiếng: Mình làm mình chịu con nhá, không làm ảnh hưởng đến gia đình người ta.                                   Em: Vâng.
Một buổi chị Chủ tịch Công đoàn gọi em lên họp, có các anh trong BGH, các anh chị BCH Công đoàn, đoàn TN, các tổ trưởng. Anh hiệu trưởng nói: Trong cuộc họp Hội đồng trường vừa qua đồng chí Hường đã báo cáo sự việc đồng chí có thai. Chúng tôi đã họp và báo cáo lên cấp trên. Hôm nay chúng tôi thông báo với đồng chí là đồng chí vẫn dạy học, vẫn công tác bình thường, đó là việc cá nhân của đồng chí, đồng chí không bị kỷ luật.      
Em nấc lên, khóc tu tu…Mọi người lặng im…động viên em cố gắng công tác.
Năm học sau phòng Giáo dục điều chuyển em đến trường khác, trường mới gần đường, không có điểm trường lẻ, về phía hạ huyện tức là em về với mẹ sẽ gần hơn.
Việc em chuyển trường là do thầy Trưởng phòng khi biết hoàn cảnh của  em, rất cảm thông với em một mẹ một con, sẽ rất khó khăn trong cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho em. Chuyện này em biết được do chị Chủ tịch Công đoàn ngành nói cho em biết. Em sinh cháu được mấy tháng, chiều hôm đó một chiếc xe Jeep vào trường, đó là đoàn công tác của phòng Giáo dục đi họp ở Ty Giáo dục về rẽ vào thăm em. Em nhận được lời động viên và quà riêng của thầy Trưởng phòng, của chị Chủ tịch CĐ ngành và một số các anh, các chị cùng đi.
Mấy chị nói vui: Bọn tao đẻ chẳng được ai cho quà, tỵ với mày đấy.
Một chị nói: Vì bọn tao đẻ có chồng bên cạnh còn mày có một mình.
Mọi người đều cười.
Cuối năm 84 em sinh, cháu trai bụ bẫm khỏe mạnh, dễ nuôi, lớn nhanh như thổi. Năm nay (2019-người viết) cháu 35 tuổi, hết lớp 12 cháu thi đỗ học viện Quân y học ở Hà Đông, bây giờ cháu công tác ở bệnh viện 108. Em dạy học ở trên đó 10 năm, đầu năm 90 em xin chuyển về thị xã. Việc em chuyển vùng cũng do may mắn. Em có ông cậu họ, mẹ em và cậu là con già con dì, cậu em bạn với ông trưởng ban Tổ chức Chính quyền tỉnh (bây giờ là sở Nội vụ- người viết) nên việc em chuyển  vùng rất thuận lợi.
   Em dạy học ở thị xã, bây giờ là thành phố đến khi nghỉ hưu. Những năm sau này có vài ba người đến với em, người thì ly hôn, người thì vợ chết.
Nhưng em còn con, em phải nuôi con trưởng thành, có nghề nghiệp, lấy vợ cho nó. Các anh đều muốn tiến xa nhưng em chỉ hẹn hò…
Năm 2015 em nghỉ hưu, em về quê bố em. Em xây căn nhà trên mảnh đất ông bà em để lại, có vườn rau, vườn hoa, ao cá đủ cả như anh thấy.
Ba năm trước chồng em bây giờ đến với em, vợ anh mất cách nay 8 năm. Anh có 2 người con một trai một gái có việc làm, có nhà riêng. Chúng em thống nhất với nhau kết bạn quãng đời còn lại không ràng buộc gì. Chúng em tôn trọng nhau. Hôm nay anh ấy “có việc” không ở nhà để em có thể “bộc bạch” với anh thoải mái.
….
Câu chuyện của em như vậy anh ạ...”

19/5/2020
                               


18 tháng 5, 2020

HAI NGƯỜI ĐÀN BÀ (2)



II- NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐƠN THÂN

Đinh Tiến Hùng

Đọc  I- NGƯỜI ĐÀN BÀ NHẪN

-     Phần 1.
Tháng 10 năm 2018 tôi đăng chuyện NGƯỜI ĐÀN BÀ NHẪN lên fb, nhiều bạn hỏi: thế cô Hường thế nào?
Thú thật thời điểm đó (lúc đăng bài) tôi chưa gặp cô Hường và không biết cuộc sống, hoàn cảnh, công việc cô Hường thế nào.
Sau này có việc ra thành phố vài lần tình cờ gặp lại các đồng nghiệp cũ, trong câu chuyện tôi biết cô Hường giáo viên tiểu học một mẹ một con đã nghỉ hưu chuyển về quê Vĩnh Phúc, nghe đâu cô ấy đã lấy chồng. Bạn tôi giới thiệu tôi đến gặp người bà con của cô Hường ngay thành phố. Và tôi đã xin được số điện thoại của cô Hường.
Tôi gọi cho cô Hường, giới thiệu tên, nghề nghiệp, địa danh nơi tôi ở trước khi tôi nghỉ hưu và câu chuyện NGƯỜI ĐÀN BÀ NHẪN tôi đã viết, đăng lên fb. Tôi xin phép cô được tìm hiểu về phần cuộc sống, công tác của cô và cháu để viết tiếp phần câu chuyện tôi đã viết.
Cô vui vẻ nhận lời sẽ kể tôi nghe về cô và mời tôi về nhà cô chơi.

***
Chuyến xe khách đưa tôi qua ngoại ô thành phố Vĩnh Yên, tôi xuống xe ngay cổng nhà cô Hường. Cô Hường đón tôi ở sân:
- Em chào anh! Mời anh vào nhà.
Căn nhà xây theo kiểu nhà vườn, trước nhà khoảnh sân rộng, bên phải là vườn rau, các luống rau được ngăn bằng lối nhỏ xây gạch pa panh. Tôi thấy có rau muống, dền tím, dền gai, mùng tơi, cà giòn, cà tím, luống đậu đũa, giàn mướp, mấy cây ớt, khoảnh hành củ, có cả hành lá, ngải cứu.
Bên trái mấy luống hoa đã ra hoa đủ màu sắc, có loài đang chờ vụ hoa.
Hường pha trà, bộ khay chén sáng loáng như vừa được đánh rửa, cô tráng ấm bằng nước sôi đủ thời gian làm nóng ấm, cho chè rồi pha nước.
Tôi đang định giới thiệu và nhắc lại chuyện tôi đã gọi điện thoại cho cô, thì cô đã nói:
- Anh không khác mấy chỉ có trông anh mập hơn xưa.
Tôi ngạc nhiên:
- Ơ...thế chúng ta đã gặp nhau?
Cô nói:
- Anh không nhớ em chứ em vẫn nhớ anh. Hồi anh ở phòng Giáo dục, năm 1986 đoàn công tác của phòng Giáo dục sang trường em kiếm tra chuyên môn khối cấp 2. Anh là tổ trưởng dự giờ, kiểm tra hồ sơ môn toán-lý. Cô Ngần giáo viên trẻ về trường được ba năm nói với em: Anh dự giờ và kiểm tra hồ sơ của nó và đánh giá loại giỏi. Trước đó tổ chuyên môn và trường đánh giá chuyên môn của nó chỉ loại trung bình.
Năm sau nó được chuyển trường và làm tổ trưởng, mấy năm sau lên hiệu trưởng. Nó bảo có thể anh đã giúp nó.
Tôi nhớ lại chuyện đó và nói với Hường:
Tôi chưa bao giờ làm ở phòng Giáo dục, hàng năm phòng Giáo dục tổ chức các đoàn công tác đến trường đều lấy giáo viên các trường khác tham gia. Còn việc của cô Ngần tôi không giúp, tôi chỉ phản ánh năng lực chuyên môn của cô ấy bằng hồ sơ chuyến công tác và phát biểu trong cuộc họp tổng kết đợt công tác.
Tôi đề cập đến việc viết tiếp câu chuyện liên quan đến câu chuyện NGƯỜI ĐÀN BÀ NHẪN.
Cô Hường mời tôi uống nước và cô cũng nhấp ngụm trà, nhìn cách cô nhấp trà tôi biết cô là người hiểu trà.

Cô bắt đầu kể: "Năm 1979 vừa tròn 19 tuổi, em tốt nghiệp sư phạm cấp 1 của tỉnh ..."
Cô kể xong, nét mặt như trầm xuống ưu tư suy ngẫm...một lúc sau:
“Câu chuyện của em như vậy anh ạ...”

Tôi để cho không khí xung quanh im ắng một lúc.
Tôi cảm ơn cô đã kể cho tôi nghe về cuộc sống và quá trình công tác của cô từ khi khi vào ngành, có cháu, nuôi cháu trưởng thành đến khi nghỉ hưu.
Tôi hỏi cô có nhắn gì người quen nơi cũ không?
Cô bảo cuộc sống thế rồi cứ để như thế, những gì xảy ra chỉ là kỉ niệm, có kỉ niệm buồn, kỉ niệm vui. Em thấy như bây giờ em hạnh phúc và mãn nguyện lắm: con trưởng thành, có nghề nghiệp, vợ chồng cháu hoà thuận, cháu nội em ngoan ngoãn. Em có một gia đình nhỏ, vợ chồng già bên nhau.

Bạn đọc thân yêu của tôi!
Câu chuyện cô Hường kể được tôi thu âm, việc của tôi bây giờ là chuyển từ kênh âm thanh thành văn bản để phục vụ các bạn. Trong quá trình chuyển đổi tôi giữ nguyên tinh thần nội dung câu chuyện, chỉ lược bớt những câu chữ từ ngôn ngữ nói thành ngôn ngữ viết cho phù hợp.

18/5/2020
(còn tiếp)


17 tháng 5, 2020

ĐỪNG XEN VÀO VIỆC CỦA NGƯỜI KHÁC


ĐỪNG XEN VÀO VIỆC CỦA NGƯỜI KHÁC

Đinh Tiến Hùng

Hôm nay gia đình anh chị Cường Thịnh dỡ căn nhà cũ, thuê máy san gạt đất giải phóng mặt bằng để giao cho chủ thầu xây dựng căn nhà 2 tầng một xép mà anh chị đã lên kế hoạch tích lũy tài chính hơn 10 năm nay.
Hai vợ chồng anh đang thu dọn thì mấy ông hàng xóm đến xem khu đất. Ở nông thôn đâu cũng vậy, nhà nào làm gì, có việc gì đố thoát khỏi con mắt tò mò, sự bàn tán của xóm giềng.
Anh chị nhanh miệng:
- Cháu chào các ông, mời các ông đến chơi. Hôm nay gia đình cháu thu xếp mặt bằng để hôm này khởi công ạ.
Ông Ngàn hỏi:
- Anh chị định xây mấy tầng?
- Dạ. Cháu xây 2 tầng và một gác xép ạ.
Ông Bách:
- Làm thế trông không đẹp, mất cân đối.
Ông Thiên nói:
- Các phòng bố trí thế nào anh?
- Dạ. Cửa vào là phòng khách sâu 7 mét ạ, tiếp là bếp và phòng ăn, toilet, trong cùng là phòng ngủ 1 ạ; tầng xép gồm sảnh rồi phòng ngủ 2 khép kín; tầng 2 thứ tự phòng thờ, phòng ngủ 3, toilet, phòng ngủ 4, sân phơi ạ.
Ông Thiên:
- 4 phòng ngủ, 3 toilet nhiều quá, tốn kém.

                                     ***
Trên đời này có 3 việc :
Việc của bản thân
Việc của người khác
Việc của ông trời.

Chúng ta thường buồn phiền là do: quên mất việc bản thân, thích xen vào việc người khác và lo lắng về việc của ông trời.

Muốn vui vẻ rất đơn giản, chỉ cần: Làm tốt việc của bản thân, đừng xen vào việc người khác và đừng nghĩ về việc của ông trời.

15.5.2020


24 tháng 4, 2020

BA BÀI THƠ NHỎ


BA BÀI THƠ NHỎ

Đỗ Thu Hằng



1.
Bụi trần đầy rẫy
Thế sự đổi thay
Nhiều lúc ngắm cây
Học điều lặng lẽ.

2.
Sen trắng thanh tịnh
Giữa lòng nhân gian
Một chút tĩnh mịch
Quên đời gian nan.

3. 
Yêu màu hoa cũ
Thương đài sen nâu
Thiền tâm đêm lạnh
Trôi đi âu sầu .



23 tháng 4, 2020

Bản đồ cổ Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa


Bản đồ cổ Trung Quốc không có Hoàng Sa, Trường Sa

Các bản đồ từ cổ đại cho đến thời Dân quốc do chính Trung Quốc phát hành đều thể hiện rõ lãnh thổ phía nam nước này chỉ tới đảo Hải Nam.


Bản đồ Hoa Di đồ có nguồn gốc từ năm 1136, 
Ảnh: CHỤP MÀN HÌNH SCMP

Trong khi hệ thống bản đồ cổ thể hiện chủ quyền xuyên suốt của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì bản đồ Trung Quốc do chính nước này ấn hành trước giai đoạn1947 – 1948 (thời điểm “đường lưỡi bò” phi lý chính thức xuất hiện) đều dừng ở đảo Hải Nam. Đây là minh chứng hùng hồn cho chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông, đồng thời phủ nhận luận điệu “Trung Quốc phát hiện và làm chủ các quần đảo ở Nam Hải (cách Trung Quốc gọi Biển Đông) từ thời Tần, Hán”.

“Sự lừa đảo lịch sử”
Theo tờ South China Morning Post, nhiều bản đồ cổ của Trung Quốc đã được các nhà nghiên cứu chụp ảnh và lưu trữ ở Thư viện Quốc hội Mỹ và ai cũng có thể xem được. Trong đó có tấm Hoa Di đồ là bản rập lại từ một bản đồ khắc trên đá năm 1136, thời nhà Tống, ở Phúc Xương (nay thuộc tỉnh Hà Nam) cho thấy từ đảo Hải Nam trở xuống Biển Đông không có khu vực nào là thuộc Trung Quốc. Tương tự, các bản đồ thời nhà Minh (1368 – 1644), đơn cử như tấm Đại Minh hỗn nhất đồ, vẫn cho rằng đảo Hải Nam là “chân trời” phía nam của Trung Quốc. Dưới triều vua Gia Tĩnh (1521 – 1566), Trung Quốc từng phát hành cuốn sách Quảng Đông lịch sử địa đồ tập, một lần nữa xác định biên giới phía nam của Trung Quốc kết thúc ở Quỳnh Châu thuộc Hải Nam. Cũng có những bản đồ hoặc thư tịch vẽ 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng có ghi rõ các đảo này “thuộc phiên quốc”, theo các tài liệu của Tạp chí Phương Đông thuộc Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông (trực thuộc Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam).


Bản đồ Đại Minh hỗn nhất đồ 
ẢNH: CHỤP MÀN HÌNH SCMP

Sang thời Nhà Thanh (1644 – 1911), các giáo sĩ dòng Tên được triều đình phê chuẩn tiến hành khảo sát, đo đạc và vẽ một loạt bản đồ. Trong số này có thể kể đến Cổ Kim đồ thư tập thành, Hoàng dư toàn lãm phân tỉnh đồ, Quảng Đông toàn đồ và Đại Thanh đế quốc toàn đồ, tất cả đều không thể hiện cái gọi là Tây Sa và Nam Sa (tên gọi ngụy xưng của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa). Chưa hết, tháng 7.2012, tiến sĩ Mai Hồng, nguyên Trưởng phòng Tư liệu – Viện Nghiên cứu Hán Nôm thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, đã tặng trao tặng cho Bảo tàng Lịch sử quốc gia tấm bản đồ xuất bản năm 1904 của Trung Quốc mang tên Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ, xác định rõ ràng đảo Hải Nam là biên cương cực nam của Trung Quốc. Từ tháng 8 – 11.2012, Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã tổ chức trưng bày bản đồ này cho đông đảo khách tham quan trong nước lẫn quốc tế.
Năm 1842, bộ sách Hải quốc đồ chí xuất bản ở Trung Quốc do tác giả Ngụy Nguyên biên soạn cũng không thể hiện Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc. Bộ sách ban đầu gồm 50 quyển, trước khi được bổ sung lên đến 100 quyển, mô tả các nước khắp năm châu bốn biển. Trong quyển 9, Ngụy Nguyên vẽ Đông Nam Dương các quốc diên cách đồ về các nước Đông Nam Á. Trong đó, ngoài khơi Việt Nam có ghi rõ “Đông Dương Đại Hải” cùng những chấm nhỏ li ti mang tên Vạn Lý Trường Sa (tức Hoàng Sa) và Thiên Lý Thạch Đường (tức Trường Sa). Theo cách thể hiện trên, 2 quần đảo hoàn toàn nằm trong Đông Dương Đại Hải (tức Biển Đông) thuộc chủ quyền Việt Nam. Bên cạnh đó, bản đồ tỉnh Quảng Đông mang tên Quảng Đông dư địa tổng đồ được vẽ theo kỹ thuật phương Tây có giới hạn tọa độ là vĩ tuyến 18 độ 5 bắc, trong khi quần đảo Hoàng Sa nằm xa hơn về phía nam, ở vĩ tuyến 16 độ 30 bắc. Ngoài ra còn có tờ bản đồ quân sự Quảng Đông thủy sư doanh quan binh trú phong đồ vẽ năm 1866 ghi chú chi tiết về vùng biển Giao Chỉ nhưng không hề thấy có “Tây Sa” và “Nam Sa”, theo Tạp chí Phương Đông. Những bằng chứng nói trên cho thấy Trung Quốc không có một cơ sở lịch sử nào để tuyên bố yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Vì thế, South China Morning Post dẫn lời Thẩm phán Tòa án tối cao Philippines Antonio Carpio gọi “đường lưỡi bò” là một “sự lừa đảo lịch sử khổng lồ” của Trung Quốc.


Bản đồ Trung Quốc năm 1933 công nhận 
cương giới phía nam nước này là đảo Hải Nam. 
ẢNH: TẠP CHÍ PHƯƠNG ĐÔNG

Đường lưỡi bò ở đâu ra ?
Theo Tạp chí Phương Đông, đến năm 1933 dưới thời Trung Hoa dân quốc (1912 – 1949), bản đồ Trung Quốc do Tân Địa học xã Vũ Xương xuất bản vẫn công nhận cương giới phía nam là đảo Hải Nam. Tuy nhiên, đây cũng chính là giai đoạn yêu sách đường lưỡi bò được “sáng tác”. Trong bài viết đăng trên website của Viện Hải quân Úc, chuyên gia Bill Hayton chỉ ra rằng vào năm 1935, Ủy ban Thẩm tra bản đồ của chính quyền Trung Hoa dân quốc tiến hành nghiên cứu và dịch lại các bản đồ khu vực dựa trên bản đồ do phương Tây xuất bản. Trong đó, đa số tên của các thực thể địa lý trên biển đều chỉ là phiên âm từ tiếng nước ngoài chứ không phải tên riêng do Trung Quốc đặt, còn các thuật ngữ như “đảo”, “đá”, “bãi cạn”, “bãi ngầm”… đều bị dịch sai. Năm 1936, ông Bạch Mi Sơ, nhà sáng lập Hội Địa lý Trung Quốc, tiếp tục dựa theo thông tin và cách dịch sai lầm của ủy ban nói trên để cho ra tập atlas Trung Hoa kiến thiết tân đồ, đồng thời tự ý vẽ thêm đường lưỡi bò ôm gần trọn Biển Đông mà không dựa trên bất kỳ căn cứ nào. “Đây là lần đầu tiên đường chữ U xuất hiện trên bản đồ Trung Quốc nhưng đó không phải là văn bản nhà nước mà chỉ là một công trình cá nhân”, học giả Hayton viết.Tai hại hơn, sau Thế chiến 2, Bộ Nội vụ Trung Hoa dân quốc bổ nhiệm 2 học trò của Bạch Mi Sơ là Phó Giác Kim và Trịnh Tư Ước vào các chức vụ liên quan đến địa lý và lãnh thổ. Trong giai đoạn 1947 – 1948, những người này tiếp tục dựa trên tập atlas sai trái của thầy mình để “sáng tác” ra những cái tên mới áp đặt cho những thực thể ở Biển Đông, đồng thời xuất bản nhiều bản đồ chứa đường lưỡi bò. Như vậy có thể kết luận, yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với Biển Đông mãi đến đầu thế kỷ 20 mới bắt đầu xuất hiện dựa trên sai lầm và cả ý đồ bành trướng của giới quan chức và học giả nước này.

Theo  THANH NIÊN