25 tháng 2, 2015

TRẠNG TRÌNH NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 - 1585)

Thái Bá Tân

Hôm nay ông kể chuyện
Về một người tuyệt vời,
Một nhà thơ, ông trạng,
Buổi Mạc - Lê giao thời.

Vâng, đúng một ông trạng,
Dân gian gọi trạng Trình,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, phải nói,
Cực giỏi và thông minh.


Nào, ông bắt đầu kể.
Cũng không dài lắm đâu.
Các cháu nghe, cố nhớ.
Nào, chúng ta bắt đầu.

*
Có một anh chàng nọ,
Nghèo, chẳng còn gì ăn.
Vợ chau mày, con đói,
Anh ta ngồi bần thần.

Bất chợt, anh ta nhớ,
Hình như xưa tổ tiên
Để lại chiếc ống quyển,
Dặn lúc nào thiếu tiền

Hay tiệt hết đường sống,
Gia cảnh quá bần hàn,
Thì mở ra, trong đó
Có bức thư gửi quan.

Chiếc ống quyển nhỏ bé
Giấu kỹ trên xà nhà,
Qua nhiều đời, ám khói
Được lấy xuống, mở ra.

Bên trong có thư thật.
Anh ta mang bức thư
Đến nhà quan sở tại,
Vẫn chưa rõ thực hư.

Lúc ấy quan đang nghỉ,
Nằm đọc sách trong nhà.
Thấy báo thư Cụ Trạng,
Liền vội vàng đi ra.      

Quan vừa đi đến cửa,
Bỗng nhiên có thanh dầm,
Chắc lâu ngày bị mọt,
Rơi đúng chỗ quan nằm.

Quan hoảng hồn, thoát chết,
Liền mở thư ra xem.
Thư có dấu, chữ ký
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Bức thư ngắn, chỉ viết:
“Tôi cứu ông vừa rồi.
Vậy xin ông giúp đỡ
Cháu bảy đời của tôi.”

*
Nguyễn Bỉnh Khiêm là Trạng,
Một thi nhân diệu kỳ,
Một đại quan chính trực
Và một nhà tiên tri.

Ông sinh ở Vĩnh Lại,
Nay Vĩnh Bảo, Hải Phòng.
Đúng vào thời thịnh trị
Của vua Lê Thánh Tông.

Tên thật Nguyễn Văn Đạt,
Hiệu Cư Sĩ Bạch Vân,
Mẹ là Nhữ Thị Thục,
Giỏi tướng số, thơ văn.

Bà là con quan lớn,
Khó tính khi kén chồng,
Mãi đến lúc luống tuổi
Mới chịu lấy cha ông,

Tức là Nguyễn Văn Định,
Tài năng loại thường thường,
Có tướng sinh quí tử,
Sau dễ thành đế vương.

Để con thành hoàng đế,
Bà đã bắt bố ông
Mười hai giờ đêm ấy
Mới được vào động phòng.   

Bố ông, chắc nóng vội,
Vào sớm hơn ít nhiều,
Nên con bà, thật tiếc,
Chỉ đại thần trong triều.

Sau chuyện ấy, bà giận,
Về với bố mẹ mình,
Rồi lấy ông chồng khác,
Rồi tính giờ, năm sinh,

Bà sinh được Trạng nữa,
Lại Lưỡng Quốc Trạng Nguyên,
Trạng Bùng, Mai Nham Tử,
Phùng Khắc Khoan, đại hiền.                   

Nguyễn Bỉnh Khiêm từ nhỏ
Được bà mẹ cầu kỳ
Dạy đến nơi đến chốn,
Không sót một môn gì.

Về sau, khi khôn lớn,
Tìm thầy tận xứ Thanh,
Lương Đắc Bằng, bảng nhãn,
Giúp hoàn thiện học hành.    

Ông thầy này uyên bác,
Từng là quan đại thần,
Sau từ quan, chán nản,
Về quê sống thanh bần.

Cậu trò Bắc học giỏi,
Chăm chỉ và thông minh,
Được thầy trước khi chết
Tặng “Thái Ất Thần Kinh”.

Đó là cuốn sách quí
Ông mang từ nước Tàu,
Về Chu Dịch, bói toán,
Bắt phải học thuộc làu.         

Thời ấy chính sự loạn,
Nguyễn Bỉnh Khiêm ở nhà,
Không bon chen thi thố
Chín kỳ thi đại khoa.

Khi nhà Mạc thành lập,
Đời ít nhiều tạm yên,
Ông mới ra thi cử,
Lập tức đậu Trạng nguyên.

Năm ấy bốn lăm tuổi,
Ông được bổ làm quan
Đông Các Đại học sĩ,
Lo soạn thảo công văn.

Ông nhanh chóng thăng tiến,
Đến chức Tả Thị lang
Của bộ Hình, bộ Lại,
Bạn của Thái thượng hoàng,

Tức vua Mạc Thái Tổ.
Tiếc là ông vua này
Đã qua đời quá sớm
Để ấu chúa lên thay.

Chính sự lại nát bét,
Đói kém, mất lòng dân.
Ông dâng sớ đòi chém
Mười tám tên lộng thần.

Trong mười tám tên ấy
Có con rể, Phạm Dao.
Thế mới biết quan Trạng
Chính trực đến mức nào.

Vua không chấp thuận sớ.
Năm Một Năm Bốn Hai,
Sau tám năm tại vị,      
Ông về với trúc mai.

Nhưng hai năm sau đó
Vua Mạc lại mời ông
Làm Thượng thư bộ Lại,
Tước hiệu Trình Quốc công.

Cũng nhờ tước hiệu ấy
Ông trở thành Trạng Trình.
Một đại thần hòa nhã,
Liêm khiết và công minh.

Bảy ba tuổi, từ chức,
Ông dựng Am Bạch Vân,
Tức là Lều Mây Trắng,
Rồi xây Quán Trung Tân.

Thỉnh thoảng vua có việc
Lại đón ông vào kinh.
Các quyết định quan trọng
Đều hỏi ý Trạng Trình.

Ông mở lớp dạy học
Bên bờ sông Tuyết Giang.
Nhiều học trò vinh hiển,
Thành một danh sách vàng.

Vào cuối năm Ất Dậu,
Tức Một Năm Tám Năm,
Ông qua đời lặng lẽ
Ở tuổi đời chín lăm.

Đích thân Mạc Đôn Nhượng
Cùng các quan đại thần
Về quê ông cúng viếng
Để bày tỏ tình thân.

Vừa là nhà chính trị,
Nhà tiên tri đại tài,
Ông là nhà thơ lớn,
Sáng tác khoảng nghìn bài.

Cả chữ Nôm, chữ Hán,
Thơ ông thật trữ tình,
Về thiên nhiên, sông nước,
Về thế thái, nhân tình.

Về số, ông là nhất
Trong năm trăm năm thơ.
Về chất, cũng loại nhất,
Đọc, không thể hững hờ.

Tuy nhiên, phải thừa nhận
Ông nổi tiếng ở đời
Nhờ những bài sấm ký
Về sự việc, về người.    

Thật lạ, nhiều tiên đoán
Lại rất đúng sau này,
Như việc quân Pháp phá
“Tan tành Cổ Am Mây.”

Hay việc ông đoán đúng
Thế chiến lần thứ hai.
“Diễn ra năm Thân - Dậu”,
Tàn khốc và kéo dài.

Năm Một Năm Sáu Tám,
Nghe lời khuyên của ông
Mà Nguyễn Hoàng yên chí
Vào lập nghiệp Đằng Trong.

Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm
Muốn bỏ Lê, lên ngôi,
“Thờ Phật thì ăn oản”,
Ông nói thế, đành thôi.

Trước khi mất, nhà Mạc
Đến hỏi kế dài lâu.
Đáp: “Đất Cao Bằng nhỏ,
Nhưng lợi thế về sau”.

Nhờ thế mà nhà Mạc
Đã chọn vùng đất này
Lập căn cứ, lánh nạn,
Tồn tại thêm nhiều ngày.


TRUYỀN THUYẾT VỀ TRẠNG TRÌNH

Có không ít truyền thuyết
Về Trạng Trình xưa nay.
Nhân tiện ông sẽ kể
Thêm vài chuyện thế này.

Hồi học ở Thanh Hóa
Với Bảng nhãn họ Lương,
Ông được thầy rất quí
Vì thông minh khác thường.  

Đến mức trước khi chết
Thầy truyền lại cho ông
Cuốn “Thái Ất” quí giá
Mà thầy đã thuộc lòng.

Cuốn sách rất khó hiểu
Do đạo sĩ Triệu Nga
Rất nổi tiếng Đời Tống
Đúc kết rồi soạn ra.

Thầy có người cùng họ
Làm quan, sống bên Tàu,
Tên là Lương Nhữ Hốt,
Chỗ thân tình từ lâu.

Một lần thầy đi sứ,
Sang gặp lại người này.
Ông cho thầy cuốn sách,
Lưu giữ đến hôm nay.

Thực ra cuốn sách ấy,
Dẫu uyên bác, thông minh,
Bỉnh Khiêm chưa hiểu lắm,
Nhưng luôn giữ bên mình.

Lại nói, rời Thanh Hóa,
Đời loạn, chưa muốn thi,
Ông theo một hảo hán
Tên là Lý Hưng Chi.

Có lần, khi phiêu bạt,
Cùng vị hảo hán này
Ông vượt qua biên giới,
Sống tạm giữa rừng cây.       

Một sáng nọ, tỉnh dậy,
Ông thấy một ông già
Dáng dị thường, quắc thước,
Cứ lởn vởn quanh nhà.

Ông già ấy, thật lạ,
Cứ nhìn ông chằm chằm,
Tay mân mê bối rối
Chiếc gậy trúc đang cầm,

Nguyễn Bỉnh Khiêm ra hỏi.
Ông đáp: Đi ngang qua
Thấy có luồng khí lạ
Bốc lên từ mái nhà.

Và rằng ông vất vả
Tìm kiếm khắp đó đây
Một cuốn sách rất quí, 
Tìm đã hai năm nay.

Khi ông già được hỏi
Cuốn sách đó là gì,
Ông đáp: Đó là cuốn
“Thái Ất Kinh tiên tri”.

Rằng thầy tôi ngày trước
Đem tặng nó một người
Là sứ thần Đại Việt,
Rồi người ấy qua đời

Trao nó cho môn đệ.
Giờ tôi tìm người này.
Vì thấy có khí lạ,
Nên tôi đã đến đây.

Người ấy có cuốn sách,
Nhưng cũng chẳng làm gì
Khi không có lời giải
Để hiểu lời tiên tri.

Tôi thì có lời giải,
Thầy trao khi qua đời.
Khi tìm được cuốn sách,
Sẽ có ích hai người.

Nguyễn Bỉnh Khiêm nghe thế,
Liền lẳng lặng vào nhà,
Lấy cuốn sách “Thái Ất”,
Hai tay đưa ông già.

Ông già nhìn thấy nó,
Sụp xuống lạy rất lâu.
Rồi ông chăm chú đọc,
Đọc và giảng từng câu.

Hai người đọc, bàn luận
Bảy ngày bảy đêm dài.
Đọc và hiểu mọi chuyện
Quá khứ và tương lai.

Rồi cả hai vội vã,
Chia tay, người một nơi
Sợ hãi vì phạm thượng
Do hiểu được ý trời.

Ông già lên phương Bắc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm một mình
Về nước, thi, đỗ trạng,
Rồi sau thành Trạng Trình.

*
Có một anh trò giỏi
Đến thăm thầy Trạng Trình.
Hôm ấy ba mươi Tết,
Ông đang ở làng mình.

Hai người đang bàn luận
Về tướng số, tử vi,
Về nhân tình thế thái,
Về sấm ký, tiên tri.

Bỗng ngoài cổng ai đó
Bảo có việc muốn nhờ.
Ông sai anh đầy tớ
Bảo người ấy hẵng chờ.

Rồi thầy trò nhà Trạng
Cùng bấm quẻ tử vi
Để đoán biết người ấy
Sang đây để làm gì.      

Cả hai người bốc quẻ,
Trúng “thiết đoản, mộc trường”.
Tức “gỗ dài, sắt ngắn.”
Một quẻ rất bình thường.

“Theo con, người ấy đến
Để hỏi mượn chiếc mai.
Chiếc mai lưỡi sắt ngắn,
Mà cán gỗ lại dài.”

Quan Trạng nghe, liền đáp:
“Theo ý thầy, ông này
Đến để mượn chiếc búa.
Mời ông ta vào đây.”

Và rồi ông hàng xóm
Bước vào, chào hai người,
Hỏi mượn tạm chiếc búa,
Lúc ra về, mỉm cười.

Thấy học trò ngơ ngác,
Thầy Trạng nói ôn tồn:
“Con bấm quẻ rất khá,
Ta có lời khen con.

Nhưng đúng quẻ chưa đủ,
Còn phải đoán, phải suy.
Hôm nay ba mươi Tết,
Hỏi mượn mai làm gì?

Phải chăng là mượn búa?
Cũng “thiết đoản, mộc trường”
Để bổ củi, nấu bánh,
Đơn giản và bình thường.      

*
Lúc nãy ông vừa nhắc,
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trạng Trình,
Có một người em nữa,
Cũng Trạng, rất thông minh.

Tuy chưa hề đỗ Trạng,
Nhưng dân gọi trạng Bùng,
Ông, một người uyên bác,
Có khí phách anh hùng.

Chắc các cháu còn nhớ,
Đó là Phùng Khắc Khoan,
Người có nhiều giai thoại
Lưu truyền trong dân gian.

Các cháu kiên nhẫn nhé.
Ông kể nốt hôm nay,
Chỉ sơ qua vài nét
Về ông Trạng Bùng này.


PHÙNG KHẮC KHOAN

Phùng Khắc Khoan nổi tiếng
Là một người tài, hiền.
Ông mới đậu Hoàng giáp,
Chưa hề đậu Trạng nguyên,

Nhưng được gọi là Trạng,
Chính xác là Trạng Bùng,
Vì quê ở Thạch Thất,
Và sinh ở làng Bùng.

Nghe người ta nói lại,
Phùng Khắc Khoan là em,
Tuy khác cha, cùng mẹ,
Với Trạng Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Được cha dạy từ nhỏ,
Rồi lại theo học anh,
Ông tấn tới nhanh chóng
Trên con đường học hành.

Nhưng dười triều nhà Mạc,
Ông không chịu đi thi.
Trung với triều Lê cũ,
Chỉ ở nhà ngủ khì.

Năm Một Năm Năm Bảy,
Ông đỗ đầu thi Hương,
Lúc đã hăm chín tuổi,
Rồi theo đường quan trường.

Trịnh Kiểm biết ông giỏi,
Cho làm ở Ngự dinh,
Trông coi bốn quân vệ,
Tham dự việc cơ binh.

Vua cho mở thi Hội,
Năm Một Năm Tám Không.
Ông thi đỗ Hoàng giáp,
Làm Thị lang bộ Công.         

Năm Một Năm Chín Bảy,
Sáu mươi chín tuổi đời,
Ông được cử đi sứ,
Tài đối đáp hơn người.

Chỉ hai năm sau đó,
Ông được thăng Thượng thư,
Bộ Công rồi bộ Lại,     
Rồi về quê nhàn cư.

*
Trong thời gian đi sứ,
Phùng Khắc Khoan nhập tâm
Học cách trồng ngô bắp,       
Cách dệt the, nuôi tằm.

Về nước, ông truyền lại
Cho dân chúng trong làng.
Một số nơi, vì thế,
Tôn ông làm Thành hoàng.

Một số giống lúa tốt
Ông cũng lén mang về
Để giúp dân Thạch Thất
Trồng chúng ở đồng quê.

Sau khi thành trí sĩ,
Ông ra đồng hàng ngày
Giúp dân đào kênh, rạch
Vùng xung quanh núi Thầy.

Nhờ thế mà có nước
Tưới cho các cánh đồng
Ở Phùng Xá, Hoàng Xá,
Giúp phát triển nghề nông.

*
Phùng Khắc Khoan, ta biết,
Còn là một nhà thơ,
Cả chữ Nôm, chữ Hán,
Còn lưu đến bây giờ.

Ông cũng là tác giả
“Sấm Thượng thư họ Phùng”,
Người đời chắc vì thế
Gọi ông là Trạng Bùng.

Thơ ông rất tao nhã,
Phong cách không giống ai.
Ông viết nhiều, chỉ tiếc,
Lưu được ba trăm bài.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét