I. Tiểu sử
Ngân Giang tên thật là Đỗ Thị Quế. Các bút danh khác: Đỗ Quế Anh, Nguyệt
Quyên... Bà sinh ngày 20 tháng 3 năm 1916 trong một gia đình Nho học tại Hà
Nội. Bà kể: "Năm lên 6 tuổi, theo người bác ra sân ga, nhìn những con tàu
ra vào ga, buồn quá tôi bỗng thốt lên: Tàu về, rồi tàu lại đi, Khối vô tình ấy
nhớ gì sân ga."
Từ đó, ông bác dành nhiều thời gian để dạy cháu mình làm thơ, phú, dịch thơ
Đường. Năm 8 tuổi, bà đăng bài thơ đầu tiên, "Vịnh Kiều", với bút
danh Nguyệt Quyên. Năm 9 tuổi, đọc kinh Phật thấy mình mắc nhiều tội lỗi quá,
nên bà quyết định quyên sinh. Rất may, người nhà kịp thời phát hiện và cứu
chữa. Năm 16 tuổi, bà in tập thơ đầu tiên, "Giọt lệ xuân", tại NXB
Tân Dân.
Hiểu rõ tính nết con gái mình, ông đồ nho Đỗ Hữu Tài muốn cho con yên bề gia
thất sớm. Không chịu sự sắp đặt của cha, bà cố tình bỏ trốn nhưng không được.
Năm 21 tuổi, bà cho xuất bản cuốn "Duyên văn" và rời Hà Nội vào Sài
Gòn viết cho "Điện Tín nhật báo" và báo "Mai". Sau đó, bà
trở ra Hà Nội viết cho "Tiểu thuyết thứ bảy", "Phổ thông bán
nguyệt san", "Đàn bà"...
Bốn năm sau, tập thơ "Tiếng vọng sông Ngân" ra đời đã đưa bà lên vị
trí những người được yêu thích trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1935, bà
tìm đến với phong trào cách mạng, bắt đầu bằng việc làm giao thông cho Đoàn
Thanh niên.
Thế rồi vào một đêm mật thám Pháp đã tới nhà khám xét, tra hỏi vì cô "Hạnh
Liên (bút hiệu khác của Ngân Giang) đã làm thơ kêu gọi thanh niên đứng lên cứu
nước dán ở Đền Ngọc Sơn". Mẹ chồng, vì lo cho sự an toàn của gia đình, đã
không ngớt lời chì chiết cô con dâu là "mầm mống gieo hoạ cho cả dòng họ".
Vào một đêm, khi đang có thai, Ngân Giang lại gieo mình xuống Hồ Tây;
"Dường như trời chưa cho tôi thoát kiếp trầm luân", sau này nữ sĩ nhớ
lại. Bà cũng nói: "Kiếp trước tôi là võ tướng, vì giết nhầm một văn nhân
nên kiếp này phải làm thi sĩ để trả nghiệp"(theo Lê Thọ Bình, tác phẩm đã
nêu trên)
Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Ngân Giang hăng hái đeo ba lô, bồng hai con
nhỏ theo đoàn quân cách mạng về Việt Bắc, để rồi hai năm sau đó phải quay trở
lại nội thành. Giữa lúc không nơi nương tựa, bà chấp nhận làm vợ con trai tuần
phủ Hà Đông với hy vọng "sẽ là lá chắn che chở an toàn để tiếp tục đóng
góp cho cách mạng". Đây cũng là bước ngoặt đầy bi kịch của nữ sĩ.
Năm 1954 hoà bình tái lập, Ngân Giang làm việc ở Sở văn hoá Hà Nội một thời
gian, rồi không hiểu vì lý do gì, bà bị buộc phải thôi làm nơi ấy khi ở tuổi
41...
Ngày ngày, bà ra bãi sông Hồng quét lá khô để bán, tối về rửa bát thuê, nhưng
cũng chỉ đủ tiền mua gạo nấu cháo cho những đứa con lay lắt sống qua ngày. Rồi
bà được nhận vào Hợp tác xã thêu ren. "Một bận người ta phát động chống
tiêu cực, tôi mạnh dạn vạch mặt kẻ tham ô, nào ngờ tham ô thì không chết mà
mình bị đuổi việc", bà kể. Khi không còn đủ sức để ra bờ sông quét lá nữa,
bà ra đầu đường mở quán bán hàng nước...
Bà mất ngày 17 tháng 8 năm 2002 và được chôn tại làng Hướng Dương, Thường Tín,
Hà Tây. Mộ bà lúc nào cũng có hoa tươi của những người yêu mến bà và thơ bà.
II. Thiên tài bị bỏ quên
Thi sĩ Nguyễn Vỹ viết: "Không giống như Mộng Sơn, Anh Thơ, Ngân Giang nữ
sĩ sống rất nhiều về tình yêu, đau khổ rất nhiều về tình yêu. Nhưng chẳng bao
giờ nàng có hạnh phúc với tình yêu cả... Và không biết vì lý do gì, Ngân Giang
không thích đăng thơ trên báo, nhưng thi thoảng được nghe thơ Ngân giang, chúng
tôi cảm động, khoái trá, bởi phong vị sầu mơ da diết, ngào ngạt trong thơ"
(Văn thi sĩ Tiền chiến, NXB Văn Học, 2007, tr.449-450)
Từ điển Tác gia Văn hoá Việt Nam, NXB VHTT, 1999 đã viết: "Tiếng thơ Ngân
Giang một thời vang vọng, như có lần thi sĩ Đông Hồ (1906-1969) lúc giảng dạy
tại Đại học văn khoa Sài Gòn, khi giới thiệu bà Trưng Nữ vương của bà, vừa ngâm
xong bài thơ, ông đột quị. Sinh viên đưa đi cấp cứu, nhưng vừa vào đến bệnh
viện thì ông ra người thiên cổ. Âu cũng là một thi thoại văn chương đáng trân
trọng."
Trích 4 câu cuối bài "Trưng Nữ Vương":
"Ải bắc quân thù kinh vó ngựa
Giáp vàng khăn trở lạnh đầu voi
Chàng ơi, điện ngọc bơ vơ quá
Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi.
Khác với "Trưng nữ vương", "Xuân chiến địa"... (có giọng
điệu trầm hùng), đa phần thơ của nữ sĩ Ngân Giang như "Hình ảnh",
"Thôn lạ đêm trăng", "Sau phút biệt ly", "Chiều
thu", "Xuân mong đợi", "Mười bài tâm sự"... đều ẩn
chứa ít nhiều nỗi ưu tư, quạnh quẽ, chán chường.
Hình ảnh
Giờ này trăng chửa qua rèm lụa,
Nửa nấp hoa quỳnh, nửa nấp mây
Tôi đứng bâng khuâng bên ngưỡng cửa,
Mắt buồn tha thiết rõi ngàn cây.
Tưởng ai thức trắng đêm dài viết,
Ánh nến buông xanh, bóng võ gầy
Đời muộn mơ gì công nghiệp lớn,
Về đi, vường ruộng ngát hương say...
Nữ sĩ Ngân Giang nổi tiếng là một nhà thơ nữ thời Tiền chiến và đã để lại nhiều
áng thơ hay. Khi thấy bà không có tên trong "Thi Nhân tiền chiến" của
Hoài Thanh, Hoài Chân và cũng không có tên trong "Nhà Văn hiện đại"
của Vũ Ngọc Phan, hai biên soạn là Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng trong
"Việt Nam thi nhân tiền chiến" (quyển trung, NXB Sống Mới, 1968, tr.
151) đã ghi lời than phiền của thi sĩ Thẩm Thệ Hà:
"Điều làm cho ngạc nhiên là tại sao các nhà phê bình văn học lại bỏ quên
một nữ sĩ tài hoa đến thế?"
III. Những tác phẩm
- Giọt lệ xuân (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên), NXB Tân Dân 1932
- Tiếng vọng sông Ngân, NXB Lê Cường 1944
- Những ngày trong hiến binh Nhật, NXB Đức Trí 1946
- Những người sống mãi, NXB Sự Thật 1973
- Ba tập "Thơ Ngân Giang" - NXB Phụ Nữ 1989 - NXB Trẻ 1991 - NXB Phụ
Nữ 1994
Chú thích về cái chết của Đông Hồ: Các sinh viên dự lớp hôm ấy đều tin rằng khi
đang bình giảng bài thơ "Trưng Nữ Vương" (Bài thơ nói về nỗi cô đơn,
lạnh lẽo của người nữ anh hùng chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng) của nữ sĩ
Ngân Giang, vì quá xúc động trước vẻ đẹp của thơ, nên thầy Đông Hồ đã bị đột tử
(tai biến mạch máu não) ngay trên bục giảng đường Đại học Văn khoa Sài Gòn vào
ngày 25 tháng 3 năm 1969 Theo"Núi mộng gương hồ", quyển 2, trang
115-116, Mộng Tuyết, NXB Trẻ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét