NHỚ 455 NĂM CHÚA NGUYỄN
HOÀNG DỰNG NGHIỆP: “MỞ MANG NGOẠI THƯƠNG, HƯỚNG TẦM NHÌN RA BIỂN”
Đăng trên Văn chương + Thứ Tư, ngày 7, Tháng 8, 2013
Kỷ
niệm 455 năm Nguyễn Hoàng dựng nghiệp tại Quảng Trị (1558 - 2013)
Nguyễn
Hoàng sinh ngày 28 tháng 8 năm 1525, tức ngày 10 tháng 8 năm Ất Dậu, mất ngày
20 tháng 7 năm 1613, tức ngày 3 tháng 6 năm Quý Sửu, thọ 89 tuổi, trong đó có
56 năm (1558 - 1613) làm trấn thủ Thuận Hoá rồi sau đó kiêm trấn thủ Quảng Nam.
Trải 56 năm dựng nghiệp, Nguyễn Hoàng đã làm nên những công tích to lớn, hiển
hách, xứng danh là vị chúa mở cõi đầu tiên của các chúa Nguyễn.
Nghiên
cứu lịch sử là nghiên cứu những bài học và kinh nghiệm của lịch sử để lại. Lịch
sử chỉ xảy ra có một lần, nhưng những bài học và kinh nghiệm của lịch sử để lại
cần phải học mãi để làm giàu vốn liếng tích lũy và trải nghiệm từ quá khứ
nhằm tạo nguồn lực vững tiến tới tương lai. Nghiên cứu về Nguyễn Hoàng dựng nghiệp
tại Quảng Trị, thiết nghĩ là nằm trong mục đích đó.
Trong
cuộc đời thăng trầm lạ lùng của mình, Nguyễn Hoàng đã để lại cho đời những bài
học và kinh nghiệm thành công nào?
Nuôi chí lớn và truyền chí
lại
Nguồn
hun đúc nên chí lớn của Nguyễn Hoàng chính là truyền thống gia đình, dòng tộc.
Nguyễn Hoàng xuất thân từ một gia đình danh giá ở Thanh Hóa. Dòng tộc Nguyễn
Hoàng có thủy tổ là Định Quốc Công Nguyễn Bặc, vị khai quốc công thần của nhà
Đinh, từng giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
Theo “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn
và “Việt sử xứ Đàng Trong” của Phan Khoang, tiên tổ
của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Công Duẩn, người Gia Miêu ngoại trang, huyện Tống
Sơn, Thanh Hóa, có công giúp vua Lê Thái Tổ (tức vua Lê Lợi) định thiên hạ, làm
quan đến Phụng thần vệ tướng quân Gia đình hầu, được tặng Thái bảo Hoành quốc
công.
Con
Nguyễn Công Duẩn là Nguyễn Đức Trung, đời vua Lê Nhân Tông, làm Điện tiền chỉ
huy sứ, cùng với Nguyễn Xí diệt nghịch đảng, rước lập vua Lê Thánh Tông lên
ngôi, làm quan đến Đô đốc Trinh quốc công, có nhiều công trạng, khi mất được
tặng Thái uý Trinh quốc công. Con gái Nguyễn Đức Trung (có tài liệu ghi tên là
Nguyễn Thị Hằng) làm tiệp dư của vua Lê Thánh Tông, sinh ra vua Lê Hiến Tông.
Con
Nguyễn Đức Trung là Nguyễn Văn Lãng tinh thông thao lược, giỏi thiên văn, có
sức khỏe bắt được hổ. Lúc đang làm Thuỷ quân vệ Chỉ huy sứ, giữ thành Tây đô,
thấy vua Lê Uy Mục vô đạo, bèn tập hợp quân ở phủ Thanh Hoá, tôn Lê Tương Dực
lên ngôi vua, vây hãm kinh thành, giết vua Lê Uy Mục. Nguyễn Văn Lãng được phong
Thái uý Nghĩa quốc công, Bình chương quân quốc trọng sự, lúc mất được tặng
Nghĩa huân vương.
Con
Nguyễn Văn Lãng là Nguyễn Hoằng Dũ, làm quan đến Đô đốc An hoà hầu, có tài văn
võ, đánh giặc Trần Cảo. Nghe tin Nguyên quận công Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương
Dực, bèn đem quân đến đốt kinh thành. Trịnh Duy Sản sợ, rước lập vua Lê Chiêu
Tông lên ngôi, vào Tây đô, do kinh thành đã bị tàn phá. Thấy triều đình bỏ kinh
đô, Trần Cảo đem quân đến chiếm, tiếm hiệu làm vua. Nguyễn Hoằng Dũ đánh tan
Trần Cảo, lấy lại kinh thành.
Con
Nguyễn Hoằng Dũ là Nguyễn Kim, thân phụ của Nguyễn Hoàng.
Theo “Đại Nam
thực lục”,
thân phụ của Nguyễn Kim, húy là Dụ. Lên 8 tuổi đã biết làm văn, 18 tuổi thông
thuộc võ nghệ. Dưới thời Lê Hiến Tông, làm Kinh lược sứ Đà Giang. Lúc thấy Lê Uy
Mục vô đạo, bèn giúp Lê Oanh khởi binh ở Thanh Hóa, giữ yên xã tắc. Lúc Lê Oanh
lên làm vua, tức vua Lê Tương Dực, được phong làm thái phó Trừng quốc công.
Theo “Nguyễn Phúc tộc thế phả”, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995, tiên tổ Nguyễn
Hoàng, tính từ đời Nguyễn Công Duẩn đến Nguyễn Kim, có những điểm khác với cách
viết của Lê Quý Đôn, của “Đại Nam thực lục” và Phan Khoang.
Viết
về Nguyễn Công Duẩn, “Phủ biên tạp lục”, “Việt sử xứ Đàng Trong” và “Nguyễn Phúc tộc thế phả” đều nêu bật công lao của ông đối với
vua Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn, nhưng “Nguyễn
Phúc tộc thế phả” viết kỹ hơn. Theo “Nguyễn
Phúc tộc thế phả”, Nguyễn Công Duẩn đã cung cấp cho nghĩa quân của Lê Lợi hàng nghìn
thạch thóc, hàng trăm bao muối; giúp vận chuyển lương thực, vũ khí; giúp đem
binh giải vây, đuổi giặc; giữ cửa ải Lê Hoa, Lào Cai, chống nhau với giặc Minh.
Khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, vua Lê Thái Tổ đã tuyên dương công trạng
Nguyễn Công Duẩn: “Nhà ngươi không lười điều binh, tiến lương, vào ra nguy hiểm
không quản sống chết. Nhớ công ngươi bẻ gãy ngọn giáo, làm quằn lưỡi gươm quân
thù, thừa thắng đánh giặc, một mình rong ruổi đông tây, ngăn sông phá núi để lo
nạn nước. Công lao ngươi mọi người đều biết, thật là cảm kích” (1). Nguyễn Công
Duẩn được xếp vào hàng khai quốc công thần bình Ngô và được ban quốc tính họ
Lê.
Nguyễn
Công Duẩn cũng có người con tên là Nguyễn Đức Trung (như Phan Khoang đã viết),
nhưng Nguyễn Đức Trung không nằm trong dòng trực hệ sinh ra Nguyễn Hoàng về sau
mà vị trí này thuộc về một người con khác của Nguyễn Công Duẩn, đó là Nguyễn
Như Trác. Nguyễn Như Trác làm quan dưới hai triều vua Lê Thánh Tông (1460 -
1497) và Lê Hiến Tông (1497 - 1504), chức Tham đốc, tước Hầu.
Con
Nguyễn Như Trác là Nguyễn Văn Lựu (cũng đọc là Lưu). Hiếu học từ bé, 8 tuổi
biết làm văn, 15 tuổi tinh thông võ nghệ. Dưới triều vua Lê Hiến Tông, giữ chức
Kinh lược sứ Đà Giang. Đời vua Lê Tương Dực (1509 - 1516), biến loạn xảy ra,
Trần Cảo chiếm lấy Đông Đô. Nguyễn Văn Lựu đem quân từ Thanh Hóa ra đánh chiếm
lại Đông Đô, rước vua Lê Tương Dực về. Nguyễn
Văn Lựu được phong làm Thái tể Trừng quốc công.
Con Nguyễn Văn
Lựu
là Nguyễn Kim, “Nguyễn Phúc tộc thế
phả” đọc
là Nguyễn Cam và cho rằng, theo phát âm của Khang Hy tự điển, chữ “Cam”
lâu nay quen đọc là “Kim”, phải đọc là “Cam” mới đúng.
Dù
phả hệ từ Nguyễn Công Duẩn đến Nguyễn Hoàng còn có những cách viết khác nhau,
không thống nhất, nhất là việc xác định ai là thân phụ của Nguyễn Kim: Nguyễn
Hoằng Dụ hay Nguyễn Văn Lựu, nhưng rõ ràng, sử sách, kể cả sách của Lê Quý Đôn,
một sử thần của chúa Trịnh đều khẳng định công lao giúp vua, giúp nước của dòng
tộc đã sinh ra Nguyễn Hoàng.
Thân
phụ của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim, làm Hữu vệ điện tiền tướng quân, An thành
hầu. Khi xảy ra sự biến Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, Nguyễn Kim đã tránh sang
Lào, xây dựng lực lượng, nuôi chí khôi phục nhà Lê. Nguyễn Kim đã đem quân về
nước, đánh thắng quân Mạc nhiều trận. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm được người con
trai nhỏ của vua Lê Chiêu Tông, tên là Ninh đang sang Lào tránh nạn, tôn lên
làm vua, tức là vua Lê Trang Tông. Lúc Nguyễn Kim tránh sang Lào, Nguyễn Hoàng
mới lên 2 tuổi, được cậu ruột là Nguyễn Ư Dĩ nuôi dưỡng. Lúc Nguyễn Hoàng 20
tuổi, Nguyễn Ư Dĩ thường khuyên Nguyễn Hoàng lập công danh sự nghiệp. Nguyễn
Hoàng làm quan dưới triều Lê, lúc đầu được phong là Hạ Khê hầu, cầm quân đánh
Mạc Phúc Hải (con trưởng Mạc Đăng Doanh), chém được tướng là Trịnh Chí ở huyện
Ngọc Sơn, được vua khen: “Thực là cha hổ sinh con hổ”. Đến đời vua Lê Trung
Tông, do có quân công, Nguyễn Hoàng được phong Đoan quận công. Khi vào trấn
nhậm Thuận Hóa, được sự giúp sức của Nguyễn Ư Dĩ, Nguyễn Hoàng có điều kiện để
thực hiện trọn vẹn lời khuyên của người cậu ruột.
Chí
lớn hun đúc từ tiền nhân đã được Nguyễn Hoàng nuôi dưỡng và sớm truyền lại cho
con cháu. Năm 1602, Nguyễn Hoàng giao Nguyễn Phúc Nguyên, người con thứ sáu làm
trấn thủ dinh Quảng Nam, nơi đất tốt, dân đông, sản vật giàu có, số thuế nộp
nhiều hơn Thuận Hóa, đặc biệt, nơi đây có núi Hải Vân, được Nguyễn Hoàng đánh
giá là “đất yết hầu của miền Thuận Quảng”. Nhờ được giao trọng trách ở một vùng
đất đặc biệt như vậy mà Nguyễn Phúc Nguyên đã sớm được tôi luyện, thử thách và
trở thành vị Chúa Sãi anh minh, lập nên những kỳ tích cho Đàng Trong. Lúc sắp
từ giã cõi đời, Nguyễn Hoàng đã gọi Nguyễn Phúc Nguyên và các cận thần đến bên
giường bệnh để căn dặn: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên
nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ,
cho thành công nghiệp”, “Đất Thuận Quảng phía bắc có núi Ngang (Hoành Sơn) và
sông Gianh (Linh Giang) hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia (Thạch
Bi sơn) vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của
người anh hùng” (2). Quyết chí nối nghiệp Nguyễn Hoàng, các chúa Nguyễn đã tiếp
tục mở mang lãnh thổ về phía Nam, xác lập vững chắc chủ quyền trên vùng đất
mới, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đưa nước ta có lãnh thổ
hoàn chỉnh như hiện nay.
Vượt qua hiểm họa, chuyển
họa thành phúc
Có
chí rồi, phải có mưu lược thì chí mới thành. Bài học cốt tử của cuộc đời Nguyễn
Hoàng, đó là biết vượt qua hiểm họa, chuyển họa thành phúc. Cổ nhân bảo “trong
họa có phúc”, điều này quả đã ứng vận trọn vẹn vào cuộc đời Nguyễn Hoàng. Mối
họa của cuộc đời Nguyễn Hoàng không nằm ở đâu xa mà nằm ngay từ chính ông anh
rể của Nguyễn Hoàng là Trịnh Kiểm. “Phủ biên
tạp lục” của
Lê Quý Đôn đã đề cập đến mâu thuẫn giữa anh em Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng với
Trịnh Kiểm, khi cho rằng, Trịnh Kiểm “lại hiểu dụ bọn Lãng quận công (chỉ anh
em Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng - chú thích của người viết) bỏ hết hiềm
khích” (3). Cách viết của Lê Quý Đôn ở đây nghiêng về Trịnh Kiểm, cho rằng mối
hiềm khích với Trịnh Kiểm là đến từ Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng. Ngược lại, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc sử quán
triều Nguyễn khẳng định mối họa đối với anh em Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng là đến
từ Trịnh Kiểm: “Từ khi Triệu Tổ Tĩnh hoàng đế ta (chỉ Nguyễn Kim - chú thích của người viết) mất đi, bỏ dở công to nghiệp lớn, quyền
bính trọng yếu trong nước đều do Trịnh Kiểm chuyên chế cầm nắm. Lãng quận công
Uông làm tả tướng. Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta (chỉ Nguyễn Hoàng - chú thích của người viết) thì cầm quân đánh dẹp, lập được nhiều
chiến công, được phong đến Đoan quận công. Cả hai đều bị Trịnh Kiểm nghi kỵ.
Rồi Tả tướng bị Kiểm làm hại. Còn Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta thì tự lắng xuống,
kín đáo giữ mình” (4). Nguyễn Ư Dĩ biết chuyện, bèn khuyên Nguyễn Hoàng giả
bệnh điên, có những cử chỉ thất thường để Trịnh Kiểm hết nghi ngờ. Sau khi cho
người đến hỏi Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm về cách tránh họa và được Trạng
Trình “mách nước”: “Hoành Sơn nhất đái, vạn
đại dung thân” (một dải núi ngang, có thể dung thân muôn đời), Nguyễn Hoàng
đã tìm được lối thoát họa, đó là phải lánh mình ở phương xa. Được Nguyễn Ư Dĩ
bàn bạc: “Thuận Hóa là đất hiểm trở kiên cố, có thể giữ mình được. Vậy nên nhờ
chị là Ngọc Bảo (Ngọc Bảo là con gái Triệu Tổ và là chánh phi Trịnh Kiểm) nói
với Kiểm, xin vào trấn thủ Thuận Hóa, rồi sau sẽ mưu làm việc lớn” (5), Nguyễn
Hoàng đã cậy chị ngỏ lời cùng Trịnh Kiểm, xin cho đi vào phương xa. Thuận theo
lời xin của vợ, Trịnh Kiểm đã dâng biểu tâu vua Lê Anh Tông cho Nguyễn Hoàng
vào làm trấn thủ đất Thuận Hóa. Nhân việc cho Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa, Trịnh
Kiểm muốn bắn một mũi tên mà trúng nhiều đích: vừa được lòng vợ và em vợ; vừa
được tiếng với vua Lê là dùng người tài trí, mưu lược trấn giữ nơi vùng đất có
“hình thể quan trọng”; lại vừa mượn xứ Thuận Hóa là nơi lam chướng nước độc,
nơi quân nhà Mạc đang khuấy động để biết đâu trừ khử được Nguyễn Hoàng. Nhưng
Trịnh Kiểm đã lầm với một người có chí lớn và biết chuyển họa thành phúc như
Nguyễn Hoàng. “Trịnh Kiểm chỉ có ý tống khứ một địch thủ. Nhưng ông đã đi sai
nước cờ. Và thay vì tống khứ, ông lại đã cho không Nguyễn Hoàng một vương quốc.
Và một chuỗi các sự kiện diễn ra đã làm thay đổi toàn bộ lịch sử Việt Nam
nói riêng và lịch sử Đông Nam Á nói chung” (6).
Sau
khi đã vào Ái Tử, Nguyễn Hoàng còn gặp nhiều mối họa khác và đều tìm cách vượt
qua được. Theo “Đại Nam thực lục”, năm 1571, Trịnh Kiểm đã
mật sai tham đốc Mỹ Lương, thự vệ Văn Lan và Nghĩa Sơn (3 vị này nhờ đóng thóc
cho nhà Lê mà được làm quan) đánh úp Nguyễn Hoàng nhưng thất bại, Mỹ Lương bị
chém, Nghĩa Sơn bị bắn chết, Văn Lan trốn chạy (ở đây“Đại Nam thực lục” đã
nhầm, vì Trịnh Kiểm đã mất từ năm 1570, nên việc mật sai này có lẽ là của Trịnh
Tùng, con Trịnh Kiểm). Năm 1572, tướng Mạc là Lập Bạo đem 60 binh thuyền vượt
biển vào đánh cướp nhưng đã bị Nguyễn Hoàng dẹp tan, Lập Bạo bị giết. Năm 1592,
vua Lê sai Trịnh Tùng đánh dẹp Mạc Mậu Hợp, lấy lại được Đông Đô Thăng Long,
Nguyễn Hoàng ra kinh yết kiến, mừng vua Lê. Trải qua 8 năm ở Đông Đô, Nguyễn
Hoàng đã giúp vua đánh dẹp quân Mạc, bọn tướng làm phản và thổ phỉ, lập nhiều
công to. “Trịnh Tùng thấy thế mang lòng ghen ghét, 8 năm không cho về trấn. Gặp
lúc ấy, bọn Ngạn, Đình Nga và Văn Khuê làm phản ở cửa biển Đại An, Thái Tổ Gia
Dụ hoàng đế ta nhân đem quân tiến đánh, bèn đem tướng sĩ thuyền chiến trong bộ
thuộc mình, phóng ra biển về Thuận Hóa” (7).
Để
vượt qua hiểm họa, ngoài việc tìm cách lánh họa ngay trên chính mảnh đất hiểm trở,
tìm cách chống chọi, đánh thắng địch họa, Nguyễn Hoàng đặc biệt còn tìm cách
hóa giải các mối họa, thông qua ứng phó khôn khéo, đối ngoại mềm dẻo. Khi về
lại Thuận Hóa, sau 8 năm ở Đông Đô, với vua Lê, Nguyễn Hoàng đã để con trai thứ
năm là Nguyễn Hải và cháu là Nguyễn Hắc ở lại làm con tin. Tuy vậy, sau khi
Nguyễn Hoàng trở về, Trịnh Tùng đã gửi thư dọa trách: “Mới đây bọn nghịch thần Phan Ngạn, Bùi Văn Khuê, Ngô Đình
Nga manh tâm bội phản, cháu và cậu đã lo liệu việc binh, sai đi đánh dẹp, chẳng
ngờ cậu không đợi mạng, tự ý bỏ về, làm dao động nhân dân, không biết ấy là ý
của cậu, hay là mắc kế bọn kia… Cậu, trong việc binh, thường lưu tâm đến kinh
sử, xin hãy xét nghĩ lại, đừng để hối hận về sau” (8). Để làm dịu
tình hình, Nguyễn Hoàng đã viết thư cho Trịnh Tùng hẹn kết nghĩa thông gia. Mùa
đông năm 1600, Nguyễn Hoàng đã gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng, con cả
của Trịnh Tùng (Trịnh Tráng lấy Ngọc Tú, tức là cháu mà lấy cô). Từ đó trở đi,
Nguyễn Hoàng không ra Đông Đô nữa, khiến triều thần nhà Lê đòi xử trí, “nhưng
Trịnh Tùng sợ việc dùng binh, không dám đả động” (9). Chắc rằng mối quan hệ
cháu lấy cô “vượt ngoài khuôn khổ” giữa Trịnh Tráng và Ngọc Tú đã góp phần hóa
giải, xua tan âm mưu động binh.
Thông
qua việc hóa giải hiểm họa, chuyển họa thành phúc, Nguyễn Hoàng đã tạo được cội
phúc vững bền, dài lâu cho các chúa Nguyễn thừa hưởng ân sủng, trong đó đặc
biệt chúa Nguyễn Phúc Nguyên không chỉ thừa hưởng mà còn có công lớn vun bồi
cội phúc này phát triển, ngay chính từ đất Quảng Trị. Cội phúc này lan
tỏa cả đến những người nhà Mạc đang gặp họa, trong đó có người vợ họ Mạc của
Nguyễn Phúc Nguyên. Mạc Cảnh Huống (em Khiêm vương Mạc Kính Điển, người đã từng
đem quân vào đánh Thanh Hóa, Nghệ An năm 1570) đã theo Nguyễn Hoàng vào Ái Tử
năm 1558, làm Thống binh, tham mưu đắc lực, được Nguyễn Hoàng tin dùng. Theo
khảo cứu của L.Cadière (10), vào khoảng năm 1593, lúc nhà Mạc suy yếu, bị đánh
đuổi khỏi vùng đồng bằng miền Bắc, phải chạy lên Cao Bằng, con gái Mạc Kính
Điển là bà Mạc Thị Giai đã cùng gia quyến theo chú là Mạc Cảnh Huống vào ẩn ở
chùa Lam Sơn, làng Cổ Trai, xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị,
nhập tịch ở tỉnh Quảng Trị. Được bà Nguyễn Ngọc Dương, vợ Mạc Cảnh Huống (bà
Dương là em vợ Nguyễn Hoàng, tức là dì ruột của Nguyễn Phúc Nguyên) tiến vào
hầu Nguyễn Phúc Nguyên ở nơi tiềm để (chỗ ở của chúa khi chưa lên ngôi), bà Mạc
Thị Giai đã được Nguyễn Phúc Nguyên yêu, quý trọng vì tính tình thuần hậu, đoan
trang và đã lấy làm vợ. Sau này, bà được đổi sang họ Nguyễn và được tôn là Hiếu
Văn Hoàng hậu. Bà sinh được 5 con trai và 3 con gái. Đặc biệt, trong số này, có
2 người con gái đã được Nguyễn Phúc Nguyên gả cho vua các nước lân bang để mở
mang quan hệ đối ngoại. Năm 1620, Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Nguyễn Phúc
Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II.
Nhờ
ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc hôn nhân này, năm 1623, một phái bộ của chúa Nguyễn
Phúc Nguyên đi sứ đến Chân Lạp đề nghị được lập cơ sở, được đặt một sở thu thuế
hàng hóa ở Prey Kôr, tức thành phố Hồ Chí Minh ngày nay và đã được Chey Chetta
II đồng ý. Năm 1631, Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái là Nguyễn Phúc Ngọc Khoa cho
vua Chiêm Thành là Pôrômê, nhằm tạo mối quan hệ giao hảo Việt-Chiêm, bảo đảm an
ninh mặt phía Nam cho chúa Nguyễn. Theo L.Cadière, làng Cổ Trai đã ghi nhận và
đánh giá rất cao công lao của bà Mạc Thị Giai đối với làng, sau khi bà qua đời,
làng Cổ Trai đã sửa ngôi chùa Lam Sơn thành đền thờ để thờ cúng bà (11). Năm
1824, vua Minh Mạng cho đổi đền thờ này thành chùa Phật: “Cho xã Cổ Trai (thuộc
huyện Minh Linh, Quảng Trị) 300 quan tiền. Cổ Trai là làng thích lý của Hiếu
Văn Hoàng hậu, trước dân làng cảm ân đức Hoàng hậu lập đền thờ, đến nay tự nghĩ
không dám thờ nhảm, tâu xin đổi làm chùa Phật. Vua theo lời xin và cho tiền”
(12). Rõ ràng, ân đức của bà Mạc Thị Giai, tức Nguyễn Thị Giai, Hiếu Văn Hoàng
hậu không chỉ nhuần thấm với đất Cổ Trai mà ân đức đó cả Đàng Trong và đất nước
đều được thụ hưởng, khi bà đã cống hiến cho dân tộc hai liệt nữ Ngọc Vạn, Ngọc
Khoa. Như vậy, việc chuyển họa thành phúc, đặc biệt là chuyển họa của cá nhân,
dòng họ của Nguyễn Hoàng thành phúc của Đàng Trong, phúc của dân tộc đã diễn ra
một cách kín đáo, khéo léo và thành công trên đất Quảng Trị và từ Quảng Trị.
Nhờ
biết giữ mình, lánh họa, vượt qua hiểm họa, chuyển họa thành phúc, Nguyễn Hoàng
đã đặt nền móng quan trọng cho công cuộc phát triển Đàng Trong, mở cõi của các
chúa Nguyễn, bắt đầu bằng việc đặt phủ Phú Yên năm 1611. Từ năm 1611 dưới thời
chúa Nguyễn Hoàng đến năm 1757 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, trong vòng 146
năm, đất nước đã được mở rộng từ Phú Yên đến Cà Mau.
Dựa vào lòng dân, vỗ về
dân, yên dân
Để
trụ vững ở nơi hiểm trở, nếm mật nằm gai, Nguyễn Hoàng đã dựa vào lòng dân. Lúc
Nguyễn Hoàng cùng những người đồng hương ở Tống Sơn, những người nghĩa dũng ở
Thanh Hóa mới vào đến bãi cát Ái Tử (theo một nguồn dẫn của Phan Khoang, Nguyễn
Hoàng đến Ái Tử trong khoảng từ ngày 10/11 đến 10/12/1558), người dân ở đây đã
đem dâng 7 chum nước trong. Nguyễn Ư Dĩ mừng rỡ nói: “Đấy là phúc trời cho đó.
Việc trời tất có hình tượng. Nay chúa thượng mới đến mà dân đem “nước” dâng
lên, có lẽ là điềm “được nước” đó chăng?” (13). Nhờ có chính sách vỗ về quân
dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng của Nguyễn Hoàng, bộ mặt vùng đất
hiểm trở mà Nguyễn Hoàng trấn nhậm, chỉ sau hơn 10 năm đã có nhiều thay đổi rõ
rệt. Đánh giá về tài trí, đức độ Nguyễn Hoàng, nhà bác học Lê Quý Đôn viết:
“Đoan quận công có uy lược, xét kỹ, nghiêm minh, không ai dám lừa dối. Cai trị
hơn mười năm, chính sự khoan hòa, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép
công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ hung dữ. Quân dân hai xứ thân yêu tin
phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong tục, chợ không bán hai giá, người không
ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua
bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều
an cư lạc nghiệp” (14), “công lao khó nhọc, thực như phên dậu của nhà nước”
(15). Quốc sử quán triều Nguyễn viết: “Bấy giờ chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự
rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ không hai
giá, không có trộm cướp” (16). Với tầm nhìn xa của người mở cõi, năm 1597,
Nguyễn Hoàng (lúc này đang ở đất Bắc giúp vua Lê ứng phó với quân Mạc và bang
giao với nhà Minh) đã có công văn lệnh cho Lương Văn Chánh, Tri huyện Tuy Viễn,
trấn An Biên (nay thuộc tỉnh Bình Định) chiêu tập lưu dân vào khai khẩn vùng
đất Phú Yên, đồng thời căn dặn không được sách nhiễu dân: “Kết lập gia cư địa
phận, khai khẩn ruộng đất hoang cho tới khi thành thục sẽ nạp thuế như lệ
thường. Nhược bằng vì việc mà nhiễu dân, điều tra ra sẽ bị xử tội”.
Người
biết thu phục lòng dân, ắt được nhân dân che chở, giúp vượt qua hiểm
họa. “Đại Nam nhất thống chí” xếp bà Phạm Thị Tôm, người huyện Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình vào hàng liệt nữ vì có công cứu nguy cho Nguyễn Hoàng. Năm
1600, từ đất Bắc, Nguyễn Hoàng cùng tướng sĩ dong thuyền ghe theo đường biển về
lại Thuận Hóa. Quân Trịnh đuổi theo. Thủy quân Nguyễn Hoàng phải chèo thuyền
thật gấp, bị đứt quai chèo. “Lúc ấy Thị Tôm theo hầu, nhân có một mớ tơ sống,
thị liền dâng để buộc chèo. Về đến nơi thị chết, Gia Dụ hoàng đế khen là có
công, truy tặng Thị giá phu nhân, lập đền thờ dinh Cát. Dinh Cát nay thuộc
Quảng Trị” (17).
Đáng
chú ý, có những câu chuyện về “thế trận lòng dân” mà Nguyễn Hoàng xây dựng nên
đã được sử sách kể lại mang màu sắc tín ngưỡng, huyền thoại. Đó là chuyện
Nguyễn Hoàng lúc đóng quân bên sông Ái Tử để chống giặc Lập Bạo đã nghe vẳng
lên từ lòng sông có tiếng “trao trao”, liền khấn thần sông giúp sức đánh giặc
và được thần sông báo mộng, thông qua hình ảnh một người đàn bà mặc áo xanh,
tay cầm quạt, đến thưa rằng: “Minh công muốn trừ giặc thì nên dùng mỹ kế dụ đến
bãi cát, thiếp xin giúp sức”. Sau khi dùng kế mỹ nhân để diệt Lập Bạo, Nguyễn
Hoàng đã phong thần sông làm “Trảo trảo linh thu phổ trạch tướng hựu phu nhân”
và lập đền thờ. Năm 1601, Nguyễn Hoàng cho dựng chùa Thiên Mụ. Khi Nguyễn Hoàng
đến đây, hỏi chuyện, được nhân dân địa phương truyền rằng: “Xưa có người đêm
thấy bà già áo đỏ quần xanh ngồi trên đỉnh gò nói rằng: “Sẽ có vị chân chúa đến
xây chùa ở đây, để tụ khí thiêng, cho bền long mạch”. Nói xong bà già biến mất.
Bấy giờ nhân đấy mới gọi là núi Thiên Mụ. Chúa cho là núi ấy có linh khí, mới
dựng chùa gọi là chùa Thiên Mụ” (18). Thông qua những chuyện kể như vậy cho
thấy, khả năng thu phục lòng dân, huy động sức mạnh nhân dân của Nguyễn Hoàng
đã được “siêu nhiên hóa”, “thiêng hóa”. Nói cách khác, Nguyễn Hoàng đã dựa vào
tín ngưỡng, Phật giáo… nhằm “thiêng hóa” sức mạnh thu phục lòng dân của mình.
Không
chỉ dựa vào dân, Nguyễn Hoàng còn “làm ơn cho dân”, vỗ về dân, yên dân, đặc
biệt là biết “biến giặc thành dân”. Sau khi sai thuộc tướng là Mai Đình Dũng
dẹp yên bọn thổ mục nổi loạn, cướp giết lẫn nhau ở Quảng Nam, Nguyễn Hoàng đã
giao Mai Đình Dũng ở lại giữ đất và thu phục, vỗ yên tàn quân. Sau khi đánh
thắng giặc Lập Bạo, Nguyễn Hoàng đã không giết hàng binh mà cho họ quyền được
sống và khai phá vùng đất mới: “Chúa cho ở đất Cồn Tiên (tức tổng Bái Ân bây
giờ) đặt làm 36 phường” (19). Cảm kích trước ân nghĩa lớn lao của Nguyễn Hoàng,
về sau, thế hệ con cháu của những người được “tha mạng sống” ở các phường An
Định Nha, An Hướng và Phương Xuân thuộc tổng Bái Ân đã dựng miếu thờ Nguyễn Hoàng
ở An Định Nha (nay là thôn An Nha, xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị).
Mở mang ngoại thương,
hướng tầm nhìn ra biển
Nắm
được lòng dân và dân đã thuận theo mình, để đưa Đàng Trong phát triển,
bài học và kinh nghiệm thành công, kinh nghiệm phát triển của Nguyễn Hoàng, đó
là mở mang ngoại thương, hướng tầm nhìn ra biển. Dưới thời Nguyễn Hoàng,
“thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn” (20). Đặc sản
tiêu Quảng Trị đã được Nguyễn Hoàng cho mua, chở cùng vây cá yến sào để đổi cho
khách buôn lấy hàng hóa, sản vật. Theo Lê Quý Đôn, họ Nguyễn đã mua tiêu Quảng
Trị “chở về phố Thanh Hà, bán cho khách tàu, không cho dân địa phương bán
riêng” (21), “hồ tiêu cứ cho 100 cân làm một tạ, giá 5, 6 quan, khách Bắc và
khách Mã Cao thường buôn về Quảng Đông” (22). Để chủ động “xúc tiến thương
mại”, khuyến khích thương gia Nhật Bản đến buôn bán với Đàng Trong, Nguyễn
Hoàng đã viết nhiều thư trao đổi, bàn bạc chuyện buôn bán với chính quyền
Tokugawa (chính quyền quân sự ở Nhật Bản). Lời lẽ trong các lá thư ngoại giao
vừa sang trọng, lịch lãm, vừa tha thiết, mềm mỏng, có những thư được gửi kèm
theo các món quà tặng là những vật phẩm quý như kỳ nam, lôi mộc, khổng tước…
chẳng hạn như thư này:
“An
Nam
quốc Đại Đô Thống Đoan Quốc Công xin ngỏ lời đến Nhật Bản Quốc vương điện hạ!
Thời
gian qua, tình hình kết giao của hai nước diễn ra tốt đẹp. Năm ngoái, Ngài đã
tặng tôi bảo kiếm, nay lại còn gửi tặng 10 trường đại đao quý, thật cảm kích vô
cùng. Hy vọng thương thuyền của quý quốc làm ăn buôn bán ở nước tôi hanh thông
thịnh vượng, có thể thấy đây là chốn an cư. Bản quốc sản vật quý không nhiều
nhưng cũng xin kính tặng Quốc Vương điện hạ một ít (có danh mục kèm theo) gọi
là lễ mọn.
Từ
năm nay trở đi, bản quốc sẽ chú trọng mậu dịch, buôn bán với quý quốc, lấy việc
thông thương an toàn làm chữ Nghĩa. Vạn vọng Quốc vương lấy việc kết giao để
dựng xây sự phát triển như đã giao ước.
Một
lời trong thư khó nói hết, xin được minh giám.
Ngày
11 tháng 5 năm Hoằng Định thứ 5 (Nhật Bản Khánh Trường năm thứ 9 - Tây lịch năm
1605)” (23).
Đặc
biệt, Nguyễn Hoàng đã nhận một thương gia Nhật Bản là ông Hunamoto Yabeije (Di
Thất Lang) làm con nuôi và viết thư báo cho phía Nhật Bản biết về mối giao hảo
tốt đẹp này: “An Nam quốc Đại Đô Thống Đoan Quốc Công báo thư - Nhật Bản
Bản Đa Thượng Dã Giới Chính Thuần trân quý! Thư đi thư lại giao hảo đã lâu, tấm
lòng đã hiểu. Cảm thần được tính cách trung hậu của Di Thất Lang. Tôi nhận Di
Thất Lang làm nghĩa tử; chăm sóc ân cần chu đáo mọi bề. Nay Di Thất Lang trở về
quý quốc. Sẽ khôn nguôi nhớ, đành tặng chiếc áo tình cảm để mặc lúc đi đường.
Rồi đây trong lòng thương nhớ xiết bao. Hy vọng rằng những tình cảm đó sẽ được
chuyển đến Bạch Quốc Vương. Và năm tới như đã hứa Di Thất Lang sẽ chỉnh đốn ba
thuyền sớm đến bản trấn giao dịch, như thế là lưỡng toàn ân nghĩa. Có một chút
lễ mọn (Bạch quyên 2 thất, Kỳ nam 1 phiến) xin gửi tặng làm tin…
Ngày
mồng 6 tháng 5 năm Hoằng định thứ 6 (1606) - Nhật Bản năm Khánh Trường thứ
10” (24).
Theo
một nguồn mà nhà nghiên cứu Li Tana đã dẫn cho biết, trong số 84 thuyền Châu ấn
của Nhật Bản đến buôn bán với An nam (chủ yếu chỉ Nghệ An ở Đàng Ngoài) và Đàng
Trong từ năm 1604 đến 1635, có 70 chiếc đến Đàng Trong. Đáng chú ý, trong số 84
thuyền này, có 17 thuyền do Hunamoto Yabeije (Di Thất Lang), con nuôi Nguyễn
Hoàng và Araki Sotaro, thương gia Nhật Bản, con rể Nguyễn Phúc Nguyên cầm đầu
(theo Li Tana, năm 1619, Nguyễn Phúc Nguyên gả con gái cho Araki Sotaro, nhưng
có lẽ Nguyễn Phúc Nguyên đã gả con nuôi thì đúng hơn, vì chiếu
theo “Nguyễn Phúc tộc thế phả”, trong số tất cả 4 người con gái của Nguyễn
Phúc Nguyên, không có ai được gả cho Araki Sotaro cả).
Với
việc đẩy mạnh ngoại thương, hướng tầm nhìn ra biển, chúa Tiên Nguyễn Hoàng và
các chúa Nguyễn đã làm cho Đàng Trong hưng thịnh và chính sự hưng thịnh này đã
góp phần quyết định tạo nên trọn vẹn dáng hình chữ S của Tổ quốc Việt Nam như
ngày nay. Cái gốc, điểm tựa và bệ phóng cho sự phát triển và hưng thịnh đó,
chính là mảnh đất Quảng Trị với vai trò quan trọng như A.Laborde, Công sứ Pháp
tại An nam trước đây đã nêu qua bài viết “Tỉnh Quảng Trị”, rằng “nếu dòng
họ nhà Nguyễn không xuất phát tại Quảng Trị, thì ít nhất sự nghiệp lịch sử của
họ phải xem là có gốc từ mảnh đất này” (25), “Con người của triều đại này sinh
ra từ đất Thanh Hoá, nhưng sự nghiệp của triều đại Nguyễn thì sinh ra từ đất
Quảng Trị” (26).
NGUYỄN HOÀN
Nguồn:
VCV
___________________
(1) Hội đồng Trị sự Nguyễn Phúc tộc, Nguyễn Phúc tộc thế phả, NXB Thuận
Hóa, Huế, 1995, tr. 73.
(2) Đại Nam
thực lục, tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr. 37.
(3) Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1 Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, 1977, tr. 49.
(4) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1998, tr. 137.
(5) Đại
Nam liệt truyện tiền biên, tập I, quyển 1-6, NXB Thuận Hóa, Huế, 1993, tr. 76.
(6) Li Tana, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và
18, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 1999, tr. 15.
(7) Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sđd, tr. 227.
(8) Dẫn theo Phan Khoang, Việt sử xứ Đàng Trong, NXB Văn học, Hà Nội, tr.
124.
(9) Đại Nam
thực lục, tập I, sđd, tr. 35.
(10), (11) Những người bạn cố đô Huế, tập IX, NXB Thuận Hóa, Huế, 2001,
tr. 259, 260, 264.
Theo
khảo sát, tìm hiểu của chúng tôi tại làng Cổ Mỹ (tức làng Cổ Trai trước đây),
xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị, người dân ở đây cho biết, tại
làng trước đây có một ngôi chùa, có tên là “Quang cổ tự”, thờ một bà hoàng
hậu. Hiện chùa không còn nhưng chỗ đất dựng chùa vẫn xác định được. Đại
Nam nhất thống chí, Tập I, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006 đã viết về chùa Cổ Trai
rằng: “Ở xã Cổ Trai, huyện Minh Linh, xã này là quê hương của Hiếu Khang
Hoàng Hậu bản triều. Sau khi hoàng hậu mất, người xã lập miếu thờ, năm Minh
Mệnh thứ 5 đổi làm chùa Phật” (tr. 243). Ở đây, có lẽ Đại Nam nhất
thống chí đã viết nhầm chăng, vì chùa Cổ Trai không phải là nơi thờ Hiếu
Khang Hoàng hậu Nguyễn Thị Hoàn, mẹ vua Gia Long, mà theo Đại Nam thực lục,
chùa này là nơi thờ Hiếu Văn Hoàng hậu Nguyễn Thị Giai, vợ Chúa Sãi Nguyễn Phúc
Nguyên.
(12) Đại Nam
thực lục, Tập II, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr. 367.
(13) Đại Nam
liệt truyện tiền biên, tập I, quyển 1-6, sđd, tr. 76.
(14), (15) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1 Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 50, 102.
(16) Đại Nam
thực lục, tập I, sđd, tr. 31.
(17) Đại Nam
nhất thống chí, tập III, NXB Thuận Hóa, Huế, 1992, tr. 282.
(18) Đại Nam
thực lục, tập I, sđd, tr. 35.
(19), (20) Đại Nam
thực lục, tập I, sđd, tr. 31.
(21), (22) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1 Phủ biên tạp lục, sđd, tr. 322,
323.
(23), (24) Dẫn theo Tạp chí Nam Phong số 54, tháng 12/1921, phần chữ Hán. Bản
dịch từ Hán sang Việt của ông Hoàng Tấn Linh, giáo viên Trường THPT Hải Lăng,
Quảng Trị.
(25), (26) Những người bạn cố đô Huế, tập VIII, NXB Thuận Hoá, Huế, 2001,
tr. 185, 188.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét