Trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, công cuộc mở đất về phương Nam
có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Qua đó, lãnh thổ được mở rộng, đất nước có điều
kiện phát triển kinh tế, đồng thời văn hoá dân tộc có cơ hội giao thoa với văn
hoá các tộc người ở vùng đất mới, tạo nên sự phong phú và đa dạng trong thống
nhất của văn hoá dân tộc Việt Nam ngày nay.
Chùa Thiên Mụ ở Huế do
chúa Nguyễn Hoàng khởi lập năm 1601.
Để
có được những chuyển biến tích cực đó, không thể không kể đến công lao của
người khởi nghiệp - chúa Nguyễn Hoàng (1525 - 1613). Chúng ta cùng nhìn lại
buổi đầu dựng nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng.
1. Sơ lược về chúa Nguyễn Hoàng
Nguyễn
Hoàng là con thứ hai của Nguyễn Kim, thân mẫu họ Nguyễn (con gái của quan Đặc
Tiến Phụ quốc thượng tướng quân, thự vệ sự triều Lê), ông sinh ngày 28 tháng 8
năm 1525, tại Gia Miêu ngoại trang, Tống Sơn, Hà Trung, Thanh Hoá.
Năm
1527, khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê Cung Hoàng, Nguyễn Kim đưa con em sang
Ai Lao (Lan Xang, nay là Lào), lập Lê Duy Ninh làm vua (tức Lê Trang Tông),
giúp nhà Lê trung hưng. Khi đó, Nguyễn Hoàng mới 2 tuổi, được cậu ruột là Thái
phó Nguyễn Ư Dĩ đem về nuôi dạy.
Năm
1540, Nguyễn Kim đem quân từ Ai Lao về Nghệ An, sau đó chiếm lại Thanh Hoá giúp
vua Lê Trang Tông lập Nam
triều chống lại Bắc triều nhà Mạc ở Thăng Long.
Năm
1545, Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu độc chết, Nguyễn Hoàng
được tập phong Hạ Khê hầu. Năm 1458, nhờ lập công lớn trong việc đánh Mạc Phúc
Hải, ông được vua Lê phong Đoan quận công. Lúc này, quyền hành trong triều Lê
chuyển sang Trịnh Kiểm (con rể Nguyễn Kim). Sau khi có ý đồ thoán đoạt ngôi vua
của nhà Lê không thành, Trịnh Kiểm sợ hai người em vợ tranh mất quyền hành nên
giết chết con trai trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông (còn tên khác là Mông)
và mưu đồ sẽ tiếp tục giết Nguyễn Hoàng. Trước tình thế đó, năm 1558, Nguyễn Hoàng
nhờ chị ruột là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ vùng Thuận Hoá.
Năm
1570, quân Mạc tấn công mạnh vùng Thanh, Nghệ, để tăng cường phòng thủ Tây Đô,
chúa Trịnh Kiểm triệu hồi Trấn thủ Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh về bảo vệ Nghệ
An và giao Nguyễn Hoàng kiêm quản Trấn thủ Quảng Nam.
Năm
1572, tướng Mạc là Lập Bạo đem quân theo đường biển vào đánh Thuận Quảng,
Nguyễn Hoàng dùng kế giết được Lập Bạo, vua Lê sắc phong ông chức Thái phó
(1573).
Năm
1593, sau khi Trịnh Tùng (con Trịnh Kiểm) lấy lại thành Thăng Long, ông đem
quân ra Bắc giúp Lê-Trịnh tiểu trừ dư đảng họ Mạc, được phong Trung quân Đô đốc
phủ đô đốc, chưởng phủ sự, Thái uý Đoan Quốc công. Sau đó, Trịnh Tùng có ý nghi
ngờ nên giữ ông ở lại đất Bắc 7 năm (1593-1600) để kiềm chế và tìm cách thu hồi
Thuận-Quảng.
Năm
1600, mượn cớ nhóm Phan Ngạn, Ngô Đình Nga, Bùi Văn Khuê nổi loạn chống triều
đình, để thoát khỏi sự kiềm chế của Trịnh Tùng, sau khi để con thứ 5 là Hải và
cháu là Hắc ở lại làm con tin, đồng thời gả con gái là Ngọc Tú cho Trịnh Tráng
(con trai Trịnh Tùng), ông bí mật rút quân vào Thuận Quảng và cho tăng cường
đồn luỹ, tổ chức hành chính, mộ dân khai hoang, phát triển ngoại thương, xây
dựng các công trình kiến trúc tôn giáo, mở mang bờ cõi, mưu sự lâu dài.
Năm
1613, Nguyễn Hoàng mất, thọ 89 tuổi. Sau được truy tôn là Thái tổ Gia Dụ hoàng
đế. (1)
2. Xu hướng Nam tiến và vùng đất phương Nam
Về
vị trí địa lý, ở thế kỷ XVI-XVII, nước ta Bắc giáp Trung Quốc; Tây giáp Ai Lao
(Lan Xang) có dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên; Đông giáp Biển Đông; Nam
giáp Champa (Chiêm Thành). Trong các hướng đó, đâu là nơi có thể mở mang bờ
cõi?
Với
bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, "Bắc tiến" là điều không thể. Bởi lẽ,
về thế giới quan của các triều đại phong kiến Đại Việt, mỗi vương triều sau khi
thành lập đều phải được sự thừa nhận của "Thiên triều" mới là
"chính thống"(!). Ý thức hệ phong kiến chi phối nặng nề, hơn nữa việc
đương đầu với thế lực có nhiều tham vọng phương Bắc để mở rộng lãnh thổ là điều
mà rất ít các vua chúa Việt Nam
"dám" nghĩ đến (trừ Lý Thường Kiệt và Quang Trung-Nguyễn Huệ).
Dãy
Trường Sơn hùng vĩ như bức bình phong, vừa là biên giới tự nhiên giữa Đại Việt
với Ai Lao, vừa là điểm tựa để vươn ra biển. Biên kia biên giới là lãnh thổ của
các bộ tộc Lào, cũng là một chư hầu của "Thiên triều" và là nơi tranh
chấp của các thế lực phong kiến Xiêm-Miến, Xiêm-Chân Lạp, vì vậy "Tây
tiến" cũng không khả thi.
Biển
Đông đã là "sân nhà" với ngư trường rộng lớn bao đời cung cấp thuỷ,
hải sản cho ngư dân Việt. Qua Biển Đông, chủ quyền Đại Việt được xác lập đến
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vì vậy, từ thế kỷ XVII, các hải đội Hoàng
Sa kiêm quản Trường Sa theo lệnh chúa Nguyễn hằng năm "Đông tiến" để
khai thác sản vật và liên tục xác lập chủ quyền trên hai quần đảo này.
Phía
Nam
là vùng Thuận Quảng, biên giới giữa Đại Việt với Champa. "Cho đến thế kỉ
XVI, trình độ kinh tế vùng Thuận Quảng còn thấp kém, lạc hậu, đương thời coi là
vùng "Ô châu ác địa", là đất "biên viễn xa xôi", là nơi đày
ải tội nhân và chiến tù. Phú thuế nhà Lê, nhà Mạc thu được ở vùng này chỉ là
các loại lâm thổ sản như ngà voi, sừng tê, hương liệu, ... Kinh tế Thuận Quảng
thấp kém, nhưng đất đai rộng, khả năng khai thác còn nhiều." (2).
Việc
tổ chức chính quyền trên vùng đất tiếp giáp Đại Việt của Champa còn rất lỏng
lẻo, quá trình xác lập chủ quyền lại không liên tục, phải thường xuyên thay đổi
đường biên do cuộc hôn nhân với nhà Trần trước đó, do các tranh chấp trong nội
bộ và do các cuộc chiến tranh xâm lấn Đại Việt của một số vua Champa. Những
nguyên nhân kể trên khiến cho việc quản trị vùng đất này của Champa hầu như
không chặt chẽ và không thường xuyên. Bối cảnh đó cho phép mở ra khả năng
"Nam
tiến" của dân tộc.
Một
hướng nữa không thể không kể đến, đó là "vùng đất tổ". Tuy nhiên, cục
diện cuộc chiến tranh Nam-Bắc triều kéo dài hơn bốn mươi năm "... không
chỉ gây ra bao cảnh đau thương, chết chóc, đẩy hàng chục vạn trai tráng vào
cảnh chém giết lẫn nhau mà còn tàn phá mùa màng, gây nên hàng loạt trận đói
1557, 1559, 1570, 1571, 1572, 1577 v.v..." (3). Do đó, tiếp tục ở lại khai
thác vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là không thể.
Như
vậy, trong các khả năng để phát triển đất nước với trọng tâm là nền kinh tế
nông nghiệp, Nam
tiến là xu hướng có tính khả thi và chủ đạo của các lưu dân Việt trong buổi đầu
mở cõi.
Xu
hướng phát triển đất nước đã xuất hiện, vấn đề còn lại và mang tính quyết định
là con người. Vùng "Ô châu ác địa", "biên viễn xa xôi"
phương Nam
thời bấy giờ liệu người Việt có khả năng chinh phục? Muốn thế, người Việt phải
hội tụ được nhiều yếu tố tích cực về tố chất. Trần Trọng Kim đã nêu những đức
tính tốt của người Việt: "Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu,
khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học
thức, quý sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm 5
đạo thường cho sự ăn ở [... ] muốn sự hoà bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì
cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật [...] có lòng nhân, biết thương người và hay
nhớ ơn. [...] Từ khi người Việt Nam lập thành nước đến giờ, kể hàng mấy nghìn
năm, phải người Tàu cai trị mấy lần, chịu khổ sở biết bao nhiêu phen, thế mà
sau lại lập được cái nền tự chủ, và vẫn giữ được cái tính đặc biệt của giống
mình, ấy là đủ tỏ ra rằng khí lực của người mình không đến nỗi kém hèn cho lắm.
Tuy rằng mình còn có thể hy vọng một ngày kia cũng nên được một nước cường
thịnh." (4)
Sự
thông minh, khéo chân tay, mến điều đạo đức, muốn sự hoà bình, có lòng can đảm,
có tính kỷ luật, những đức tính tốt đẹp đó của dân tộc là minh chứng cho khả
năng chinh phục vùng đất mới của các lưu dân Việt. Sự tiếp xúc, cọ xát với cuộc
sống và nền văn hoá của các dân tộc vùng đất phương Nam đã giúp người Việt tự đổi mới
mình cho thích hợp ở môi trường sống mới. Bản lĩnh của dân tộc cùng với nền văn
hoá bản địa vững chắc đã tạo điều kiện cho sức sống dân tộc được nâng cao hơn.
"Nam tiến là xu hướng
tất yếu trong sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam xét về các
điều kiện kinh tế-tự nhiên thuận lợi so với miền đất tổ, cũng là để bảo tồn và
tăng cường sức mạnh tự vệ của cộng đồng trước sức ép thường xuyên của cường
địch phương Bắc.
Mặt
khác, quá trình Nam
tiến cũng chính là quá trình đổi mới và nâng cao sức sống của dân tộc."
(5)
Với
các sử liệu nêu trên cho thấy, vùng đất phương Nam mặc dù có những khó khăn nhưng
cũng tiềm tàng nhiều thuận lợi. Điều kiện khách quan như đã nêu trên và cục
diện chiến tranh Nam-Bắc triều lúc bấy giờ đã tạo điều kiện chủ quan cho Nguyễn
Hoàng tính đến chuyện "Nam tiến", và "...vùng đất phương Nam từ
khi khai phá và định hình lãnh thổ mấy thế kỷ nay vẫn là địa bàn sôi động nhất,
bắt buộc mọi người đến đây, không kể điểm xuất phát, phải năng động sáng tạo
mới có thể vươn lên trong đấu tranh, xây dựng cuộc sống..." (6)
3. Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm với xu hướng Nam
tiến
Cục
diện chính trị Đại Việt ở thế kỷ XVI-XVII chịu ảnh hưởng một phần không nhỏ bởi
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông sinh năm 1491, tự Hanh Phủ, người làng Trung
Am, huyện Vĩnh Lại (nay thuộc Hải Phòng), trong một gia đình sĩ phu. Ông thi đỗ
Trạng nguyên năm 1535 thời nhà Mạc. Sau được bổ làm Thượng thư Bộ Lại, tước
Trình quốc công, nhân dân tôn xưng gọi Trạng Trình. Năm 70 tuổi (1561), ông xin
nghỉ hưu, về quê dạy học và đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước như Phùng
Khắc Khoan, Nguyễn Dữ ... Năm 1585, ông mất thọ 94 tuổi. Đương thời, chúa Trịnh
và chúa Nguyễn đều cho người đến tham khảo ý kiến ông về những vấn đề hệ trọng
của đất nước.
Với
chúa Trịnh
Từ
năm 1545, sau khi Nguyễn Kim mất, binh quyền trong triều đình nhà Lê đều do một
tay Trịnh Kiểm nắm giữ. Vua Lê Trang Tông chỉ là hư vị. Năm 1556, vua Lê Trang
Tông mất, không có con nối ngôi, Trịnh Kiểm muốn nhân dịp này tiếm ngôi, nhưng
sợ các tướng tá, nho sĩ chưa ủng hộ nên cho người hỏi Trạng Trình. "Ông
Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ ngoảnh lại bảo đầy tớ rằng: Năm nay mất
mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ. Nói rồi lại
sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương, để ông ra chơi chùa, rồi bảo
tiểu rằng: Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản."(7) Ngụ ý của ông là Trịnh Kiểm
không nên cướp ngôi nhà Lê mà nên tìm con cháu vua tiếp tục tôn lập và giữ phận
tôi thần. Biết ý ông như vậy, Trịnh Kiểm thôi không lo chuyện cướp ngôi nữa.
Nhờ vậy, nội bộ Nam
triều không có sự thay ngôi đổi chủ.
Với chúa Nguyễn
Sau
khi nắm giữ binh quyền, "nhưng vì Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền
mình, bèn kiếm chuyện mà giết Nguyễn Uông đi. Còn Nguyễn Hoàng cũng sợ Trịnh
Kiểm có ý ám hại, chưa biết làm thế nào mới cho người ra Hải Dương hỏi ông
Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông ấy bảo rằng: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung
thân" nghĩa là một dãy Hoành Sơn kia có thể yên thân được muôn
đời."(8). Nạn phe phái trong triều, sự thâu tóm quyền hành của họ Trịnh và
lời tiên tri của Trạng Trình đã giúp cho Nguyễn Hoàng đi đến quyết định dứt
khoát: "Nam
tiến"!
Dựa
vào "lời sấm" để dựng lại lịch sử là điều chưa khoa học, dù cho lời
tiên tri đó được nhiều bộ sử đáng tin cậy có ghi chép lại, nhưng chúng ta chưa
có đủ chứng cứ phản bác thì hãy tạm tin những ý kiến của Trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm là hiện thực và là một phần của lịch sử dân tộc, đồng thời có ý
nghĩa sâu sắc đối với tiến trình phát triển của đất nước.
4.
Con người chúa Nguyễn Hoàng
Lịch
sử từng chứng minh mỗi giai đoạn đều có các yêu cầu đặt ra và để giải quyết các
yêu cầu đó lịch sử đã sản sinh ra những nhân vật xuất chúng mà tên tuổi của họ gắn
liền với vận mệnh quốc gia dân tộc. Nguyễn Hoàng là một trong những người như
thế. Ở ông, từ buổi đầu, tầm vóc của một nhà lãnh đạo đã được thể hiện qua
nhiều biểu hiện.
Sử
liệu cho biết, năm 1558, khi vào trấn thủ Thuận Hoá, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều
anh em, bà con quê ở Tống Sơn (Thanh Hoá) cùng một số quan lại cũ của Nguyễn
Kim và một số nghĩa dũng người Thanh, Nghệ. Trong buổi đầu đi trấn nhậm vùng
biên viễn, nơi được xem là "ác địa", nhiều thách thức đặt ra. Đồng
thời để đối phó lâu dài với họ Trịnh, Nguyễn Hoàng cần phải có chỗ dựa vững
chắc nên những người thân thuộc, trung thành là sự lựa chọn đầu tiên của ông
trong bước đường "Nam tiến". Lịch sử đã từng chứng minh điều đó là
đúng qua trường hợp Lý Công Uẩn tin dùng Đào Cam Mộc hay Trần Thái Tông tín
nhiệm Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải và trung thần Trần Bình Trọng "thà
làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc" hay Lê Thái Tổ với Lê Lai
"cứu chúa" và Nguyễn Trãi. Qua sự việc đó cho thấy Nguyễn Hoàng là
một người khôn ngoan.
Để
thoát khỏi âm mưu thủ tiêu của anh rể Trịnh Kiểm, Nguyễn Hoàng đã nhờ chị là
Ngọc Bảo xin cho vào trấn thủ Thuận Hoá, nghĩa là ông đã dùng tình cảm gia đình
để giải quyết tình thế hiểm nghèo. Lựa chọn này của Nguyễn Hoàng là một độc đáo
trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam . Điều này chứng tỏ, Nguyễn
Hoàng là một người khéo léo trong xử lý tình thế.
Năm
1572, nhân Trịnh Kiểm mới mất, nhà Mạc sai tướng Lập Bạo đem quân vào đánh
Thanh Hoá, Nguyễn Hoàng dùng kế mỹ nhân, sai Ngô Thị đưa vàng bạc giả cầu hoà.
Lập Bạo tưởng thật, không đề phòng bị quân Nguyễn giết và quân Mạc bị đánh tan.
Năm
1593, sau khi Trịnh Tùng chiếm Thăng Long, Nguyễn Hoàng đưa quân ra Bắc giúp
chúa Trịnh dẹp trừ dư đảng họ Mạc, lập được nhiều công to. Làm điều này, Nguyễn
Hoàng nhằm tránh sự nghi ngờ của Trịnh Tùng. Tuy nhiên với bản tính đa nghi,
Bình An vương đã giữ Nguyễn Hoàng ở lại đất Bắc đến 7 năm (1593-1600).
Năm
1600, để thoát khỏi sự kiềm chế của Trịnh Tùng, Nguyễn Hoàng bí mật cho người
nổi loạn chống chúa Trịnh. Sau khi để lại con, cháu làm con tin và gả con cho
họ Trịnh, Nguyễn Hoàng bí mật rút quân bản bộ vào Thuận Hoá chuẩn bị mưu sự lâu
dài. Điều này đã được sử sách xác nhận: "Bây giờ thái uý Đoan quốc công
Nguyễn Hoàng ngầm sai (chúng tôi nhấn mạnh) bọn Kế quận công Phan Ngạn, Tráng
quận công Ngô Đình Nga, Mỹ quận công Bùi Văn Khuê mưu làm phản. Bình An vương
cùng các quan đương bàn việc đánh dẹp. Hoàng muốn cho kế của mình được trôi
chảy, giả vờ xin đem quân đi đuổi đánh, rồi đốt hết doanh trại, trốn về Thuận
Hoá" (9)
Năm
1613, khi sắp mất, Nguyễn Hoàng đã dặn dò các cận thần: "Ta với các ông
cùng nhau kham khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại
cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp"(10) và
di huấn cho con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên: "Đất Thuận, Quảng này bên bắc
thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam thì có núi Hải Vân và núi Bi Sơn
thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân
dân, luyện tập quân sĩ để mà gây dựng cơ nghiệp về muôn đời." (11).
Dùng
kế mỹ nhân trừ giặc, giúp dẹp dư đảng họ Mạc để tránh sự nghi ngờ, mượn cớ dẹp
loạn để thoát khỏi sự kềm toả, dặn dò cận thần và di huấn cho con những vấn đề
trọng yếu, quyết định sự tồn vong của chính quyền Đàng Trong trước khi mất,các
sự kiện trên, chứng minh rằng Nguyễn Hoàng là một người đầy mưu trí và có tầm
nhìn chiến lược.
Một
vấn đề nữa góp phần thể hiện đầy đủ chân dung chúa Nguyễn Hoàng đó là hết lòng
lo cho dân chúng và biết thu phục hào kiệt. Chúa Nguyễn chiêu mộ dân chúng,
khuyến khích khẩn hoang, cho phép lập ruộng tư; cấp lương thực, nông cụ cho tù
binh, biến họ thành lực lượng khai hoang. Đồng thời dùng chính sách khoan hoà,
chinh phục cư dân Champa, Chân Lạp. Đó là những chính sách mà ông đã tạo ra để
đẩy mạnh cuộc khẩn hoang, mở rộng lãnh thổ. Mặt khác, để công cuộc "Nam
tiến" và xây dựng lực lượng chính quyền Đàng Trong có hiệu quả, còn phải
kể đến việc thu hút các hào kiệt của Nguyễn Hoàng. "Bấy giờ ở miền Nam lại
có những người tôi giỏi giúp rập như các ông Nguyễn Hữu Dật, Đào Duy Từ, Nguyễn
Hữu Tiến [...] Những người ấy giúp chúa Nguyễn, bày mưu định kế, luyện tập quân
lính, xây đồn đắp luỹ để chống với quân Trịnh" (12)
Những
việc làm trên đã để lại trong lòng người dân Đàng Trong sự kính trọng và biết
ơn đối với Nguyễn Hoàng. Danh hiệu Chúa Tiên mà dân chúng dành cho ông và vì
sao một bộ phận dân cư vùng đất Nam Bộ ủng hộ Nguyễn Ánh trong cuộc chiến với
Tây Sơn là những chứng lý có sức thuyết phục.
Như
vây, trong suốt 55 năm cai trị Thuận Quảng, Nguyễn Hoàng vừa là một vị tướng
mưu lược, vừa là một vị chúa khôn ngoan lại có lòng nhân đức, biết thu phục hào
kiệt, vỗ về dân chúng, lo phát triển kinh tế, biết nhẫn nhịn chờ thời cơ, lập
chí lớn, mở mang bờ cõi, gây dựng cơ nghiệp lâu dài để lại cho con cháu mai
sau. Tất cả những việc làm ấy chỉ có thể có được ở những nhân vật kiệt xuất,
những tên tuổi lớn của lịch sử.
Tuy
nhiên, một vấn đề có thể gây băn khoăn đó là việc phải chăng Nguyễn Hoàng chọn
con đường "Nam tiến", chấp nhận hy sinh tình cảm cha con, ông cháu
tức đã sẵn ý định cát cứ phương Nam, dùng bạo lực chống lại chính quyền
Lê-Trịnh, đó là hành động cực đoan, hiếu chiến (?). Xét bối cảnh lịch sử bấy
giờ cho thấy, trước viễn cảnh "nồi da xáo thịt", không thể ở lại vùng
đất tổ, chúa Tiên phải chọn vào Thuận Hoá là con đường sống duy nhất, phải sử
dụng bạo lực để bảo vệ chính quyền mới và mở mang bờ cõi là điều tất yếu. Kết
quả công cuộc "Nam tiến" đạt được mà chúng ta thừa hưởng hiện nay đã
chứng minh lựa chọn của Nguyễn Hoàng là đúng đắn, đồng thời cũng là câu trả lời
"sử dụng bạo lực" trong trường hợp này là chính đáng và có sức thuyết
phục nhất, bởi lẽ "Người ta chỉ lên án bạo lực khi nó chưa cần thiết,
nhưng trong trường hợp là con đường duy nhất thì ai cũng phải chấp nhận
nó". (13)
Bên
cạnh những đức tính tốt như đã nêu trên, ở Nguyễn Hoàng còn tồn tại hạn chế mà
sử liệu cho biết: Năm 1600, sau khi Nguyễn Hoàng rút quân trở lại Thuận Quảng,
Trịnh Tùng sai thiêm đô ngự sử là Gia Lộc tử Lê Nghĩa Trạch đem thư thuyết phục
cậu mình nên tiếp tục thần phục chính quyền Lê-Trịnh. "Hoàng nghe tin
Nghĩa Trạch đến, lập mưu cướp lấy chiếu thư, làm nhục sứ giả. Đêm sai dũng sĩ
đến chỗ trọ cướp lấy hết hòm xiểng đem về, xem không thấy có chiếu thư. Lại sai
đến chỗ nhà trọ đốt hết cả. Hoàng cho là giấy tờ đều cháy hết ở trong đám lửa
rồi, ngày hôm sau thân đem tướng tá, chỉnh đốn voi ngựa nghi vệ ra đón, trông
thấy Nghĩa Trạch hai tay bưng thư đi đến, lấy làm kinh ngạc, bảo với tướng tá
rằng: "Trời sinh chủ tướng, triều đình có người giỏi". Từ đấy không
có ý ngấp nghé gì nữa". (14)
Tóm
lại, con người luôn luôn tồn tại hai mặt đối lập trong một thể thống nhất, đó
là tốt và xấu. Nếu ở Nguyễn Hoàng đã thể hiện những đức tính của một thủ lĩnh
chính quyền mới như khôn ngoan, khéo léo trong ứng xử, mưu trí và có tầm nhìn
chiến lược, hết lòng lo cho dân và biết thu phục hào kiệt thì chúa Tiên với
việc mưu cướp chiếu thư, làm nhục sứ giả cho dù được biện minh với lý do không
có chiếu thư thì không phải trở ra Bắc phục mệnh với triều đình là hành xử đáng
chê trách. Tuy vậy, nhìn chung ông vẫn được hậu thế đánh giá cao về tư cách đạo
đức và sự nghiệp mở mang bờ cõi. Ghi nhận công lao của Nguyễn Hoàng, nhà sử học
Trần Trọng Kim đã viết: "Còn những công việc họ Nguyễn làm ở phía nam quan
trọng cho nước Nam hơn cả, là việc mở mang bờ cõi, khiến cho nước lớn hơn,
người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ những người nghèo khổ trong nước đưa đi
khai hóa những đất đai phì nhiêu bỏ hoang, làm thành ra Nam Việt bây giờ phồn
phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm
vậy." (15)
5. Công lao của Chúa
Nguyễn Hoàng
Năm
1558, sau khi vào trấn thủ Thuấn Hoá, Nguyễn Hoàng tập trung nổ lực vào hai
việc chính: ổn định bộ máy chính quyền và mở mang bờ cõi.
Để
ổn định chính quyền, việc đầu tiên phải làm là chọn nơi đóng dinh cơ. Buổi đầu
ông cho xây dựng trị sở ở Ái Tử (Quảng Trị). Về sau, do đất đai ngày càng mở
rộng, yêu cầu an toàn của dinh cơ trong chiến tranh, năm 1570 trị sở dời về Trà
Bát (cũng thuộc Quảng Trị). Năm 1602, sau chuyến kinh lý vào Quảng Nam , nhận ra vị
trí yết hầu của miền Thuận Quảng, ông liền dựng dinh và cho con là Nguyễn Phúc
Nguyên trấn nhậm. Sau khi Nguyễn Hoàng qua đời, các chúa Nguyễn nhiều lần dời
thủ phủ vào Phước Yến rồi Kim Long (năm 1626). Cuối cùng, là Phú Xuân (Huế nay)
năm 1687. Từ đó, Phú Xuân trở thành kinh đô của Đàng Trong cũng như của nước
Việt thời vương triều Nguyễn (1802-1945).
Công
cuộc mở mang bờ cõi được thể hiện qua các hoạt động tổ chức khai hoang, xây
dựng đền chùa, tiếp biến văn hoá, chinh phạt xâm lấn, ngoại giao hôn nhân, trợ
giúp khôi phục ngai vàng.
Nạn
chiến tranh liên miên giữa các thế lực phong kiến Nam-Bắc triều buộc nhân dân
phải phiêu tán, ách áp bức bóc lột của địa chủ quan lại đã làm nông dân khốn
cùng, thiên tai liên tiếp trong nửa cuối thế kỷ XVI ... là những "nhân
hoạ" và "thiên tai" cho nhân dân. Để mưu sinh, nhân dân vùng
Thanh Nghệ phải chạy vào Thuận Quảng, lúc bấy giờ còn là đất Champa. Vì vậy, có
ý kiến so sánh cuộc "Nam tiến" của Nguyễn Hoàng với công cuộc khai
thác miền viễn Tây của người Mỹ như sau: "Nếu cuộc Tây Tiến của dân tộc
Hoa Kỳ vào thế kỷ XVII đã thành công ngay từ đầu nhờ kỹ thuật tiến bộ, nhờ lòng
can đảm và nhất là nhờ địa thế thuận tiện (vùng đất họ đến hoang vu chưa có
người khai thác), thì cuộc Nam tiến của các triều chúa Nguyễn vào thế kỷ XVII
đã gặp nhiều khó khăn vì những vùng phải di dân tới đều đã nằm dưới quyền kiểm
soát của Chiêm Thành và Chân Lạp."(16)
Tuy
nhiên, lịch sử cho thấy, bằng tài năng và đức độ của mình, Nguyễn Hoàng đã biết
khắc phục những khó khăn và phát huy những thuận lợi trong công cuộc khai
hoang.
?
vùng Thuận Quảng, động thái tích cực của Nguyễn Hoàng trong chính sách khai
hoang như trên đã trình bày, nhờ vậy, "nhanh chóng khai thác đất đai và
nhanh chóng xây dựng Thuận Quảng thành những tỉnh phồn vinh và giàu
có."(17). Từ đó, Thuận Quảng trở thành hậu phương vững chắc cho chính
quyền Đàng Trong. Ở vùng đất phía Nam , chính sách cai trị mềm mỏng
của Nguyễn Hoàng đã chinh phục được người dân Champa, Chân Lạp theo về với
chính quyền mới.
Cùng
với đó là việc tổ chức khai mỏ, giao dịch thương mại với nước ngoài buổi đầu
tuy còn đơn giản nhưng hiệu quả, quân đội được phiên chế thành nhiều binh chủng
có kỷ luật, trật tự trị an được đảm bảo góp phần tạo hiệu quả của cuộc khẩn
hoang.
Trong
Phủ Biên tạp lục, nhận xét về chính sách trị nhậm của Nguyễn Hoàng ở xứ Thuận
Quảng, Lê Quý Đôn, đã viết: "Đoan Quận Công có uy lược, xét kỹ, nghiêm
minh, không ai dám lừa dối. Cai trị hơn 10 năm, chính sự khoan hòa, việc gì
cũng thường làm ơn cho dân, dùng phép công bằng, răn giữ bản bộ, cấm đoán kẻ
hung dữ. Quan dân hai xứ thân yên tín phục, cảm nhân mến đức, dời đổi phong
tục, chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải
đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh
nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp. Hàng năm nộp
thuế má giúp việc quân, việc nước, triều đình cũng được nhờ..." (18)
Thuận
Quảng vốn là đất cũ của người Chǎm chịu ảnh hưởng Hindu giáo, chúa Tiên đã dùng
Phật giáo để thuần hoá nhân dân. Ông sửa sang và xây dựng nhiều ngôi chùa mà Thiên
Mụ tự là một tiêu biểu. Tương truyền, nǎm 1601 trên gò đất cao hình rồng thuộc
xã An Ninh ngày nay, có người nhìn thấy một bà già mặc quần áo xanh đỏ ngồi
trên gò nói: "Phải có người tới dựng chùa ở đây mà thu góp khí thiên để
giữ vững long mạch". Ông cho xây dựng ngôi chùa và đặt tên Thiên Mụ (19).
Đây là công việc to lớn có giá trị nhất đối với lịch sử Phật giáo Đàng Trong.
Ngôi chùa lịch sử này đã có quan hệ mật thiết với quá trình phát triển đất
Thuận Hoá và triều Nguyễn ở Việt Nam .
"Sau
khi Nguyễn Hoàng vào Nam và thiết lập nên nền thống trị nên nền chính trị tập
quyền thì họ mang nguyên nền văn hoá của mình đến với người địa phương, bắt
buộc người bản xứ mang họ Việt, chuyển thành người Việt bằng cách nói tiếng
Việt và quên dần gốc gác" (20) Từ đây, một bộ phận người Việt nói tiếng
Việt theo giọng Chăm hình thành. Đó là những người Việt vùng Quảng Nam , Đà Nẵng
hiện nay. Đây là biểu hiện của sự tiếp biến văn hoá và cũng là hệ quả của công
cuộc Nam
tiến của Chúa Tiên Nguyễn Hoàng.
Sự
nghiệp mở cõi về phương Nam
còn được thể hiện thông qua công cuộc chinh phạt xâm lấn. Năm 1611, vì Champa
quấy rối vùng biên giới, Trấn thủ Nguyễn Hoàng sai Chủ sự Văn Phong [không rõ
họ] vượt đèo Cù Mông đánh Champa, chiếm đất lập phủ Phú Yên chia làm 2 huyện
Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Năm
1653, vua Champa là Bà Thấm đem quân cướp phá Phú Yên, chúa Hiền Nguyễn Phúc
Tần đem quân chinh phạt, lấy đất từ núi Thạch Bi đến sông Phan Rang lập phủ
Thái Ninh, sau đổi thành phủ Diên Khánh, đặt dinh Thái Khang (tức Khánh Hoà
nay).
Năm
1693, vua Champa Bà Tranh bỏ lệ triều cống, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu
Cảnh đem quân đi đánh, bắt được vua Champa, giải về Phú Xuân và sáp nhập phần
đất còn lại của Champa vào Đàng Trong, đặt làm phủ Thuận Thành. Đến năm 1697,
Quốc Chúa sáp nhập Phan Lý (Phan Rý nay) và Phan Lang (Phan Rang nay) làm Bình
Thuận. Đến đây, nước Champa mất hẳn, lãnh thổ Đàng Trong mở rộng đến Bình
Thuận.
Quá
trình "Nam tiến" còn được các chúa Nguyễn tiến hành qua ngoại giao
hôn nhân, giữa công chúa Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chay Chetta II năm 1620 và
công chúa Ngọc Khoa với vua Champa Pôrômê năm 1631 qua trợ giúp khôi phục ngai
vàng cho các vua Chân Lạp: Hoàng thân Sô và Ang Tan năm 1658, Hoàng thân Ang
Ton và Ang Non [Nặc Ông Nộn] năm 1673. (21) Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đã
nối tiếp nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê mở rộng đất nước một cách hợp pháp về phương Nam .
Tóm
lại, 457 năm trước chúa Nguyễn Hoàng tổ chức cuộc "Nam tiến".
Bằng đức độ và tài năng, ông đã dựng nghiệp, mở mang bờ cõi, phát triển kinh tế
cho đất nước, tạo nên sự phong phú và đa dạng về văn hoá cho dân tộc. Mặc dù
cũng có ý kiến trái chiều về một số vấn đề xung quanh cuộc "Nam tiến"
(22) nhưng các giá trị mà chúa Tiên và các chúa Nguyễn đã mang lại cho dân tộc
là những công lao to lớn của tiền nhân, bổn phận của chúng ta hiện nay là phải
nhận thức rõ các giá trị đó, biết trân trọng, bảo tồn cho hôm nay và cả mai
sau.
____________________
CHÚ THÍCH
(1). Về ngày mất
của chúa Nguyễn Hoàng, nhiều tài liệu ghi khác nhau. Đại Việt sử ký toàn thư
chép "Tháng 6 [Quý Sửu (1613)], thái uý Đoan Quốc công ở Thuận Quảng
chết", (Nxb Thời đại, tr. 919); Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim; Lịch
sử Việt Nam (1427-1858), Quyển 2 Tập 1 của các tác giả Nguyễn Phan Quang,
Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh; Các triều đại Việt Nam của Quỳnh Cư, Đỗ Đức
Hùng; Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh chủ
biên đều không ghi ngày mất, chỉ ghi năm Nguyễn Hoàng mất là năm Quý Sửu
(1613); Riêng sách Tóm tắt niên biểu Lịch sử Việt Nam của Hà Văn Thư và Trần Hồng
Đức ghi "[Nguyễn Hoàng] mất ngày 21-5-1613", (Nxb Văn hoá-Thông tin,
Hà Nội-1997, tr. 167); Thế thứ các triều vua Việt Nam của Nguyễn Khắc Thuần ghi
"[Nguyễn Hoàng] mất vào tháng 6 năm Quý Sửu (1613)", (Nxb Giáo dục,
tr. 99); Tạp chí Xưa và Nay, số 431, tháng 7-2013, ở mục Tin tức hoạt động sử
học có ghi: "Theo lịch sử để lại, chúa Nguyễn Hoàng mất vào mùng 3-6 âm
lịch năm Quý Sửu (1613), ..."(tr. 42).
(2). Nguyễn Phan
Quang-Trương Hữu Quýnh-Nguyễn Cảnh Minh (1977), Lịch sử Việt Nam
(1427-1858). Quyển 2 tập 1. Nxb Giáo dục, tr. 70.
(3). GS. Trương
Hữu Quýnh-GS. Đinh Xuân Lâm-PGS. Lê Mậu Hãn (2001), Đại cương lịch sử Việt Nam . Nxb Giáo
dục, tr. 340.
(4). Trần Trọng
Kim (2000), Việt Nam
sử lược. Quyển 1. Nxb TPHCM, tr 6-8.
(5). Trần Bạch
Đằng, Tính năng động, sáng tạo của người Việt sống trên đất phương Nam . Kỷ yếu hội
thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII - XVIII, Trường
Đại học sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, tháng 5/2002, tr 4.
(6). Trần Bạch
Đằng, sđd, tr. 9.
(7). Trần Trọng
Kim (2000), Việt Nam
sử lược. Quyển 2. Nxb TPHCM, tr 19.
(8). Trần Trọng
Kim, Sđd. Quyển 2, tr 32.
(9. Ngô Sĩ Liên
và các sử thần triều Lê (2011), Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Thời đại, tr 913.
(10) và (11).
Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Đại Nam thực lục tiền biên, Viện Sử
học, tr 44.
(12). Trần Trọng
Kim, Sđd. Quyển 2, tr 39-40.
(13). Trần Văn
Giàu, Người đánh thức một thế hệ thanh niên còn mê ngủ, Tạp chí Hồn Việt, số
72, tr 47.
(14). Ngô Sĩ
Liên và các sử thần triều Lê (2011), Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd, tr 915.
(15). Trần Trọng
Kim, Sđd. Quyển 2, tr 90.
(16). Lê Đình
Cai (1971), 34 năm cầm quyền của chúa Nguyễn Phúc Chu. Đăng Trình xuất bản, tr.
84.
(17). Nguyễn
Phan Quang-Trương Hữu Quýnh-Nguyễn Cảnh Minh, Sđd, tr 117.
(18). Lê Quý Đôn
(1964), Phủ Biên tạp lục, Nxb Khoa học, tr.42.
(19). Trần Mạnh
Thường (2005), Việt Nam Văn hoá và Lịch sử. Nxb Thông tấn, tr 804.
(20). Hồ Trung
Tú (2011), Có 500 năm như thế. Nxb Thời đại, tr. 80.
(21). Xem Phan
Đăng Thanh, Vài khía cạnh hành chính-pháp lý trong quá trình thu nhận và quản
lý bước đầu vùng đất Gia Định. Kỷ yếu Hội thảo khoa học Nam Bộ và Nam Trung Bộ
những vấn đề lịch sử thế kỷ XVII-XIX do Trường Đại học sư phạm TPHCM tổ chức,
tháng 5 năm 2002, tr 154-157 và Hội khoa học lịch sử Việt Nam (2006), Lược sử
vùng đất Nam Bộ. Nxb Thế giới.
(22). Xem Trần
Viết Ngạc, Nguyễn Hoàng 400 năm nhìn lại. Tạp chí Xưa và Nay số 432, tr 6-10.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét