Đinh Tiến
Hùng
Đó là thời chúng ta bây giờ gọi là “thời bao
cấp”, tức là “thị trường” lúc đó chỉ có nhà nước điều hành, tham gia. Thời đó
lý luận chỉ thừa nhận có hai hình thức sở hữu (hai thành phần kinh tế) là “sở
hữu NHÀ NƯỚC và sở hữu TẬP THỂ” (sở hữu tập thể với dạng Hợp tác xã - HTX).
Mọi mặt
hàng thiết yếu người dân cần hàng ngày như gạo, thịt, chất đốt (dầu hoả), mắm
tôm, nước chấm,…đều do nhà nước quản lý và điều hành. Hệ thống cửa hàng Mậu
dịch Quốc doanh của nhà nước, cửa hàng HTX mua bán bán ra các mặt hàng phục vụ
cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước và nhân dân rất nghèo về chủng loại và ít
về số lượng.
Cán bộ,
công nhân, viên chức nhà nước có “ sổ gạo” dùng để mua gạo do cửa hàng Lương
thực bán, người lớn trung bình được tiêu chuẩn mua 13kg gạo/tháng, tiêu chuẩn
gạo trẻ con tuỳ theo độ tuổi; Các mặt hàng thực phẩm thiết yếu khác thì có “tem,
phiếu Thực phẩm” dùng mua hàng ở cửa hàng Mậu dịch Quốc doanh. Quần áo mặc của
cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước và nhân dân thì thì có “phiếu vải”, mỗi
năm trung bình mỗi người được mua 2 mét vải may quần áo. Người dân hàng năm
được ăn thịt lợn một lần vào dịp Tết. Nhà nước quy định mỗi gia đình được mổ
một con lợn vào dịp Tết Nguyên đán, vì vậy các gia đình cả năm cố gắng nuôi một
con lợn mổ Tết, lợn nuôi lúc đó chỉ nuôi lớn khoảng 80kg là to rồi, thường là
40, 50kg. Gia đình nào không nuôi được lợn thì chung mổ lợn với gia đình khác
gọi là “đụng lợn”. Nhưng để được mổ lợn Tết thì phải có lợn bán “nghĩa vụ” cho
nhà nước, mỗi hộ gia đình phải bán lợn nghĩa vụ 25kg/năm thịt lợn hơi.
Mấy ông
thợ cắt tóc dạo, cắt tóc tại gia; mấy ông bà thợ may tại nhà, trước năm 1960
được gom lại thành “HTX May - Cắt tóc”. Năm 1959 - 1960 “phong trào HTX nông
nghiệp” được phát động. Người nông dân “tự nguyện đóng góp” ruộng vườn của mình
vào HTX nông nghiệp. Đi làm ruộng có “kẻng” điều hành giờ đi làm, giờ nghỉ của
nông dân. Mô hình HTX này bắt chước từ mô hình NÔNG TRANG của Liên Xô, mô hình
CÔNG XÃ của Trung Quốc. 7 giờ 30 sáng nông dân nghe kẻng báo đi làm thì vác cào
cỏ ra đồng, ngồi bờ ruộng 30 phút tào lao, xuống ruộng làm cỏ 45 phút, nghỉ
giải lao 20 phút, làm tiếp 30 phút rồi về. Năng suất lao động thấp, sản phẩm
thu được tương ứng với công sức lao động. Vì sao? Vì làm việc “cho tập thể”,
không phải làm việc cho MÌNH. Sản phẩm nông nghiệp phần lớn đóng thuế cho nhà
nước, phần còn lại chia theo “công điểm”, cuối cùng người nông dân chỉ thu về
gia đình được phần nhỏ lương thực trong cái phần sản phẩm thấp từ HTX, kết quả
đói (nhưng không ai chết đói như ở Trung Quốc).
Tình cảnh người nông dân đói quanh năm suốt những
năm (20 năm) tồn tại HTX nông nghiệp.
Đến năm
1981 với Chỉ thị 100 "CẢI TIẾN CÔNG TÁC KHOÁN, MỞ RỘNG “KHOÁN SẢN PHẨM ĐẾN
NHÓM LAO ĐỘNG VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG” TRONG HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP" cho nông
dân tự sản xuất lương thực, hoa màu trên đất ruộng của HTX mà thực chất đó là
ruộng của nông dân tuân theo chính sách họ “tự nguyện đóng góp” vào HTX.
Năm 1988
với Nghị quyết 10 “VỀ ĐỔI MỚI QUẢN LÝ KINH TẾ NÔNG NGHIỆP”
đã giải phóng người nông dân khỏi những ràng buộc.
Từ đây
người nông dân được tự do cày trên mảnh ruộng của nhà nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét