Trần Thị Băng Thanh
Nhân
dân ta từ rất xa xưa có tục ăn tết Mồng ba tháng ba. Trong ngày tết ấy người
dân không nhóm lửa, chỉ ăn đồ nguội, vì thế Tết mồng ba tháng ba còn gọi là
“Tết hàn thực” (Tết ăn đồ nguội). Ngày nay tục lệ ấy vẫn thịnh hành. Giải thích
về tục lệ này, nhiều người đều cho là bắt nguồn từ Trung Quốc, gắn với câu
chuyện về cái chết thương tâm của Giới Chi Thôi.
Tích
truyện kể rằng Tấn Văn Công trong những ngày gian khổ mưu cầu sự nghiệp bá
vương, có lúc bị đói, Giới Chi Thôi đã cắt thịt đùi mình dâng ông ăn. Sau khi
thành công, khen thưởng, Tấn văn Công quên Giới Chi Thôi, Giới buồn hận bỏ đi.
Sau Văn Công nhớ ra triệu vời nhưng Giới không đến, trốn vào rừng. Tìm gọi mãi
không được, Tấn Văn Công sai đốt rừng để Giới phải chạy ra; nhưng Giới Chi Thôi
ôm cây chịu chết cháy chứ nhất định không tha thứ cho vị quân chủ mà Giới cho
là vô tình. Tấn Văn Công sửa lỗi, nhưng lỗi lại chồng thêm lỗi nên hối hận, từ
đó sai lệnh cấm lửa trong ngày này (mồng 3 thấng 3) để tưởng nhớ người bề tôi
trung thành mà ông vì vô tâm đã bỏ quên. Cho đến ngày nay, chắc chắn chúng ta
cũng đinh ninh nguồn gốc của ngày tết này là như thế.
Nhưng
cách đây đúng 720 năm, Trần Nhân Tông (1258 – 1308) đã nói rõ đó là “phong tục
cổ của An Nam từ xưa”. Ông khẳng định điều đó trong một bài thơ kèm theo mâm
bánh biếu sứ giả nhà Nguyên Trương Hiển Khanh (tên là Lập Đạo) sang Việt nam
năm 1292. Bài thơ như sau:
Giá
chi vũ bãi thí xuân sam,
Huống trị kim triêu tam nguyệt tam.
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bính,
Tòng lai phong tục cựu An Nam.
(Múa giá chi rồi, thử áo xuân
Hôm nay Hàn thực, buổi thanh thần
Bánh rau tinh khiết đầy mâm ngọc
Phong tục An Nam theo cổ nhân.)
Biếu Trương Hiển Khanh bánh xuân
(Trần Lê Văn dịch)
Bài
thơ giọng điệu trang nhã, vừa rất ân cần với khách vừa ý tứ sâu xa.
Trước
hết hãy nói về Trương Hiển Khanh. Người Việt nam chắc ai cũng nhớ, vào năm 1288
nước ta vừa “đại phá” cuộc xâm lược của nhà Nguyên lần thứ ba. Vua Nguyên (Hốt
Tất Liệt) vốn rất hận, đã tập trung lực lượng chuẩn bị đánh lần thứ tư vào năm
1294. Trương Hiển Khanh là Thượng thư bộ Lễ của Nguyên triều sang Việt Nam có
nhiệm vụ “dụ” vua Trần phải thực tâm thần phục, sang triều kiến vua Nguyên và
chịu làm theo mọi điều kiện nhà Nguyên áp đặt, nếu không thiên triều sẽ “trừng
phạt”. Có thể Trương Hiển Khanh cũng còn một nhiệm vụ nữa là quan sát xem nước
Việt sau năm năm với hai cuộc chiến khốc liệt, thế và lực ra sao. Vua tôi nhà
Trần hiểu rất rõ điiều đó, cho nên cuộc tiếp sứ lần này thực chất là một cuộc
đấu tranh ngoại giao gai góc chứ không phải là cuộc thăm hỏi xã giao. Nhưng
Trần Nhân tông hết sức chủ động, nhà vua chủ trương “hóa giải” tình hình đó,
trước hết với vị sứ thần có địa vị cao trong Nguyên triều và chắc chắn có học
vấn. Vua tiếp sứ giả ở Điện Tập hiền với phong cách rất thân mật, chủ tâm theo
phong tục An Nam: đặt tiệc mời toàn hải sản, trong lúc trò chuyện thỉnh thoảng
lại mời ăn trầu, thậm chí còn mời vào trong trướng “ngồi xuống đất”. Trong cả
chuỗi sự kiện tiếp đãi với tinh thần khẳng định bản lĩnh dân tộc đó, vua Nhân
Tông trong ngày tết Mồng ba tháng Ba đã biếu Trương Hiển Khanh một mâm bánh với
bài thơ trên. Các vua nhà Trần là những người có học, chắc chắn nhà vua biết rõ
câu chuyện Giới Chi Thôi, nhưng với căn cứ gì vua Nhân Tông khẳng định đó là
“phong tục cổ An Nam từ trước tới nay”? Trần Nhân Tông không ghi chú rõ, nhưng
gần đây tìm hiểu ý tứ của bài thơ này, chúng tôi đã thấy một căn cứ. Nguyên là
theo sách Kinh Sở tuế thời ký thì ngày thứ 105 trong tiết đông, thường có mưa
to gió lớn, gọi là tiết Hàn thực, người ta cấm lửa trong 3 ngày; Lời chú của sách
này nói: Theo lịch thì tiết ấy vào khoảng trước thanh minh 2 ngày, cách ngày
đông chí 106 ngày. Một sách “biệt lục” của Lưu Hướng cũng nói tiết Hàn thực có
từ đời Chu ; tiết này được gắn với truyện Giới
Chi Thôi là từ thời Hậu Hán. Cũng sách này còn ghi người bản địa “thổ nhân”
trong ngày 3 tháng ba còn ra bến sông, thả chén chỗ sông quanh vui uống rượu.
Như vậy có thể nói ngày 3 tháng ba là một lễ hội của cư dân nông nghiệp phía
nam, từ vùng Kinh Sở trở xuống (mà Việt Nam ngày nay xa xưa cũng là một trong
Bách Việt. Bách Việt khác Hán tộc). Vì thế Nhân Tông mới nhấn mạnh đây là
“phong tục cổ của An Nam”. Cũng có thể còn thêm một căn cứ nữa là nếu cứ theo
tích Giới Chi Thôi thì tết mồng ba tháng ba là một cái tết buồn, nhưng trái lại
với Việt Nam đây là một lễ hội vui, có múa hát, có mặc áo mới và ăn một thứ
bánh có rau, tinh khiết như “hồng ngọc” mà vua gọi là “bánh xuân”. Bài thơ hai
mươi tám chữ tặng Trương Hiển Khanh của Trần Nhân Tông quả là có một chiều sâu
tư tưởng, một vẻ đẹp nhân văn rất đáng để hậu thế chiêm ngưỡng và suy ngẫm.
Sau
những động thái trong cuộc tiếp sứ của vua tôi nhà Trần, Nguyên sứ Trương Hiển
Khanh đã không thể tuyên dụ được những chỉ dụ của vua Nguyên trong cuộc đối
thoại mà đành viết lại thành văn bản trao sau. Và lúc đó thì “thiên sứ” đã lên
đường về nước. Quả là sau khi tiếp xúc với Trần Nhân Tông, Trương Hiển Khanh đã
có một cách nhìn, cách nghĩ khác về An Nam. Khi về, ông đã viết trong một bài
ký: “Vua An Nam tiếp chuyện vui vẻ luôn luôn làm thơ tặng thiên sứ. Lập Đạo tức
thì làm thơ đáp lại. Tiệc gần xong, mời Lập Đạo vào trong trướng, đều ngồi trên
đất”. Với quan sát của Lập Đạo bây giờ “An Nam là nước nhỏ, nhưng có văn
chương, không thể nói bừa họ là ếch ngồi đáy giếng”. Và ông thể hiện suy nghĩ
đó trong một bài thơ với nhiều cảm tình:
.
Dao vọng thương yên toả mộ hà,
Thị triều nhân viễn cách yên hoa.
Cô hư đình viện vô đa sở,
Thịnh mậu viên lâm chỉ nhất gia.
Đông khai cao thụ mộc miên hoa.
An Nam
tuy tiểu văn chương tại,
Vị khả khinh đàm tỉnh để oa.
.
Bản dịch An Nam chí lược:
.
Ngắm cảnh chiều hôm khói mịt mờ,
Xa nơi thành thị đỡ huyên hoa.
Quạnh hiu đình viện không nhiều sở, Tươi tốt vườn cây chỉ một nhà.
Thiên Hán bến Nam
tuôn mạch nước,
Mộc miên cây lớn trổ cành hoa.
An Nam
tuy nhỏ văn chương thịnh,
“Ếch giếng”, khuyên đừng chế giễu ngoa.
.
Thực ra những ngày tết lễ, những phong tục tốt đẹp được hình thành là sáng tạo
văn hóa của nhân loại. Nếu người ta thấy hay, thấy đẹp thì học theo, cũng chẳng
có điều gì phải ngần ngại; cũng như giới trẻ ngày nay đã rất thích ngày Tết
tình yêu 14 – 2, hay mọi người đều rất thích tục tặng quà cho con trẻ trong Đêm
Chúa giáng sinh 25 – 12 ... Có điều tìm đến gốc gác một phong tục để biết thêm
vẻ đẹp nhân văn của nó cũng là một việc rất nên biết. Huống nữa trả lại cái ý
nghĩa sâu xa vui vẻ và đầy sức sống như thế cho ngày tết mồng 3 tháng Ba cổ
truyền của người Việt lại càng là một việc rất nên làm.
_______________
Những tư liệu viết bài này lấy từ các sách: Đại Việt sử ký toàn thư, NXB Khoa
học xã hội in năm 1985 và An Nam chí lược, bản dịch, Tài liệu tham khảo của Thư
viện văn học và Bản dịch, NXB Thuận Hóa – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây,
in năm 2002, Từ nguyên, Thương vụ ấn thư quán (Trung Quốc) xuất bản năm 1947.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét