Tác
giả: Thảo nguyên
Có
rất nhiều bài viết đã giới thiệu về dòng họ Lý của Việt Nam tại Hàn Quốc, sau
đây, TTHQ xin được giới thiệu tới các bạn một bài phân tích của Yên Tử Cư Sĩ
Trần Ðại Sĩ về: “Sự liên hệ giữa dòng họ Lý ở Việt Nam và Ðại Hàn”. Tuy đây là
một bài viết mang tính chất cá nhân và có nhiều điều cần xác thực nhưng lại
chứa nhiều chi tiết cụ thể, sinh động giúp các bạn quan tâm đến dòng họ Lý có
thể hình dung được phần nào về “cuộc di dân” của tổ tiên sang đất Triều Tiên.
Ði
Tìm Con Cháu Thuyền Nhân 849 Năm Trước: Nguyên Tổ Hai Giòng Họ Lý Tại Ðại Hàn
Tác giả
chân thành cảm tạ Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm viện Pháp-quốc hải
ngoại, đã giúp đỡ rất nhiều khi viết bài này.
Ngày
17 tháng 9 năm 1957, Tổng-thống Ngô-đình Diệm công du Ðại-hàn (1). Năm sau,
ngày 6 tháng 11 năm 1958, Tổng thống Ðại Hàn dân quốc là Lý Thừa Vãn, viếng
thăm Việt-Nam. Trong dịp này ông đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt.
Báo hồi ấy có tường thuật sơ sài. Còn chính quyền thì gần như không để ý đến
chi tiết lịch sử này.
Bấy
giờ, đệ nhất Cộng Hòa thành lập chưa quá hai năm, mới chỉ có viện Khảo-cổ,
không có cơ quan nghiên cứu lịch sử. Cho nên không ai nghĩ đến việc sang Ðại Hàn
tìm hiểu xem họ Lý từ Việt Nam ,
đã di sang đây từ bao giờ? Ai là nguyên tổ của họ?
Thời
gian này tôi mới 19 tuổi, vừa bước chân vào đại học. Nhưng nhờ thấm nhuần Nho giáo,
nên đã chững chạc lắm rồi. Tôi viết thư cho sứ quán Ðại Hàn tại Việt-Nam để hỏi
về chi tiết này. Dĩ nhiên tôi viết bằng chữ Nho. Hơn tháng sau tôi được thư trả
lời của tộc Lý tại Nam Hàn. Trong thư, họ cho tôi biết rằng:
“Tổng-thống
Lý Thừa Vãn là hậu duệ đời thứ 25 của Kiến-bình vương Lý Long Tường. Kiến Bình
vương là con thứ 6 của vua Lý Anh-tông. Người cùng tông tộc sang Cao-ly vào đầu
thế kỷ thứ 13 vì quốc nạn”.
Ánh
sáng đã mở ra trước mắt tôi. Nhưng tôi tra trong Ðại-Việt sử ký toàn thư
(ÐVSKTT), trong Việt-sử lược (VSL), trong Khâm-định Việt-sử thông giám cương
mục (KÐVSTGCM), không bộ nào nói đến Kiến Bình vương Lý Long Tường cả.
Tò
mò chưa được thỏa mãn, nhưng tôi đành bỏ qua, vì bấy giờ tôi phải dồn hết tâm
tư vào việc học. Năm 1959, trong khi lục lọi tại thư viện Paris, vô tình tôi
đọc được Tập-san sử địa của Nhật-bản, số 2 năm 1941, trong đó nói vắn tắt rằng:
“Năm
Bính Tuất, 1226, bấy giờ là niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-tôn nhà Trần.
Biết mình là con thứ sáu vua Lý Anh-tông, lại đang giữ chức đô đốc, tư lệnh hải
quân, trước sau gì cũng bị Trần Thủ Ðộ hãm hại, nên ông đã đem tướng sĩ dưới
quyền, tông tộc, cùng hạm đội ra đi, sau đó trôi dạt vào Cao-ly”.
Tôi
tự hẹn, sau này có tiền sẽ sang Ðại-hàn tìm hiểu chi tiết này.
Thế
nhưng, sau khi ra trường, 1964, tuy đã có chỗ đứng vững chắc về phương diện tài
chánh. Ngặt vì nghề sinh nhai lối dọc đường ngang, tôi vẫn không thực hiện được
ước vọng sang Hàn quốc, tìm hiểu về nguồn gốc họ Lý tại đây.
Mãi tới năm 1980, tháng 8, tôi đi trong phái đoàn Pháp, sang dự đại hội y khoa
tại Hàng-châu Trung-quốc. Ở đại hội, tôi được tiếp xúc với phái đoàn Bắc-cao.
Phái đoàn này có bác sĩ Lý Chiếu Minh ở Hùng-xuyên (Hunchon) và bác sĩ Lý Diệp
Oanh ở Thuận-xuyên (Sunchon). Bấy giờ tôi đã 41 tuổi, còn Diệp Oanh mới 30
tuổi. Tuy là bác sĩ, thế nhưng cô tươi như hoa lan, phơi phới như hoa thủy tiên
ban mai. Thấy mỗi bữa ăn cô lẩm nhẩm đọc kinh mà không làm dấu thánh giá, tôi
cho là cô đọc kinh Phật. Tôi cũng đọc kinh Bát-nhã bằng tiếng Việt. Cô hỏi tôi:
– Ủa! Anh đọc kinh cảm ơn Tổng-thống
Valéry Giscard đấy à?
– Không! Tôi đọc kinh Phật. Thế cô đọc kinh gì vậy?
– Phật đâu có cho anh cơm ăn, áo mặc ?
– Vậy cô đọc kinh gì ?
– Tôi đọc kinh cảm ơn cha già Kim Nhật-Thành đã cho chúng tôi đươc tự do, có cơm ăn, áo mặc! (2)
Nghe
cô nói, tôi rùng mình. Song thấy cô xinh đẹp, tôi đùa:
“Ở
nước tôi, vào thế kỷ thứ 12, dưới triều vua Lý Anh-tông, tổ tiên tôi là Trần
Thủ Huy được gả công chúa Ðoan Nghi…”.
Diệp
Oanh cắt lời:
“Sang
đầu thế kỷ thứ 13, cũng tổ tiên anh là Trần Liễu được gả công chúa Thuận Thiên,
Trần Cảnh được vua Chiêu Hoàng tuyển làm chồng. Rồi tổ tiên anh xua đuổi, nên
tổ tiên tôi thành thuyền nhân, ngày nay Hàn quốc mới có họ Lý”.
À! Vạn lý tha hương ngộ tri kỷ đây. Biết rất rõ Diệp Oanh là con cháu của Kiến
Bình vương Lý Long Tường, tôi đùa thêm:
“Biết
đâu cô không là công chúa Ðoan Nghi, tôi không là Trần Thủ Huy tái đầu thai? Có
lẽ chúng mình nên đi tiếp con đường tổ tiên mình đã đi”.
Diệp
Oanh vả tôi một cái vào má trái, tỏ cử chỉ thân thiện. Song chúng tôi bắt con
tim ngừng phiêu lưu ở đây, vì bấy giờ bà vợ tôi còn sống, còn quá trẻ; vợ chồng
lại rất tương đắc ngoài đời, nồng thắm trong phòng the.
Thế
rồi chúng tôi nhận họ. Suốt đại hội, tôi với Chiếu Minh, Diệp Oanh gần nhau như
bóng với hình. Tôi kể cho hai người nghe về những trang sử rực hào quang dưới
thời Lý, nhất là huyền sử về Linh Nhân hoàng thái hậu (Ỷ Lan). Sau đại hội,
Chiếu Minh, Diệp Oanh rủ tôi du lịch Bắc-cao. Bấy giờ là thịnh thời của chủ
tịch Kim Nhật Thành, Bắc-cao khép kín cánh cửa với thế giới bên ngoài. Tuy
nhiên nhờ mang thông hành Pháp, nên tòa đại sứ Bắc-cao ở Bắc-kinh cho tôi cái
chiếu khán được du lịch nghiên cứu về nhân sâm trong 8 ngày.
Tới
Bắc-cao, ông đại sứ Pháp tưởng tôi đi nghiên cứu nhân sâm thực. Ông lệnh cho
văn phòng tùy viên văn hóa giúp đỡ tôi. Tôi không muốn nói dối ông đại sứ. Tôi
thú thật là đi tìm một số tài liệu lịch sử. Dù biết tôi mượn danh đi nghiên cứu
y khoa, cơ quan trao đổi y học dư thừa tài chánh đài thọ tất cả phí tổn cho
tôi. Thế nhưng sứ quán Pháp vẫn giúp đỡ tôi tận tình. Nào cung cấp xe, cung cấp
tài xế, gửi thư giới thiệu.v.v. Kể ra làm công việc nghiên cứu của Pháp cũng
sướng thực. Xin vạn vạn lần cảm ơn tinh thần yêu văn hóa của nước Pháp.
Tại
Hùng-xuyên, cũng như Thuận-xuyên, các chi họ Lý tiếp đón tôi rất niềm nở. Buồn
là các cuộc đàm thoại bị giới hạn khá nhiều, tôi phải dùng tiếng Quan-thoại nói
với Chiếu Minh và Diệp Oanh. Hai vị này dịch sang tiếng Ðại-hàn. Các chi họ Lý
xin phép chính quyền, rồi tổ chức những buổi hội, để nghe tôi nói chuyện về
thời đại Tiêu-sơn. Khi nghe kể đến đoạn công chúa Bảo Hòa tu tiên, cho đến tuổi
90 vẫn trẻ như hồi 17 tuổi, cử toạ suýt xoa sung sướng. Lại khi nghe tôi thuật
giai thoại vua Lý Thánh-tông, đang đêm trốn khỏi hoàng cung, gặp cô thôn nữ Yến
Loan, rồi sau đưa về cung phong làm Ỷ Lan phu nhân; cử tọa vỗ tay hết tràng này
đến tràng khác. Khi nghe tôi kể đến các công chúa Bình Dương, Kim Thành, Trường
Ninh trấn ngự biên cương khiến các quan Tống ở Nam-biên nghe đến tên đều kinh
hồn vỡ mật. Các cô ngửa mặt lên nhìn trần nhà cười đầy vẻ hãnh diện. Lúc mà tôi
thuật đến đoạn Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại quân phá vỡ phòng tuyến
Như-nguyệt, tiến đến rừng tre, cách Thăng-long có 25 cây số… Trong phòng có đến
hơn 700 người, mà không một tiếng động. Rồi tôi kể tiếp: Công chúa Thiên Ninh
đánh bật quân Tống trở về Như-nguyệt, thì phòng hội hoan hô đến muốn rung động
thành phố. Tôi thuật tiếp đến đoạn công chúa tuẫn quốc, thì cả phòng hội đều
khóc nức nở. Những người khóc nhiều nhất lại là những thiếu niên.
Hầu
hết những chi họ Lý đều đem gia phả ra hỏi tôi những chi tiết mà họ không hiểu.
Tất cả gia phả đều viết bằng chữ Nho. Như gia phả của chi Thuận-xuyên, có đôi
câu đối:
Thập-bát anh hùng giai
Phù-đổng,
Tam thiên nữ kiệt tỷ Mê-linh.
(Mười tám anh hùng đều như Phù-đổng thiên
vương.
Ba nghìn nữ kiệt đều có
thể sánh với Trưng-vương).
Tôi
phải moi trí nhớ, để đọc cho họ chép lại tiểu sử 18 danh tướng vào thời vua Lý
Nhân-tông, kháng Tống tuẫn quốc. Tôi lại phải thuật cho họ nghe về công chúa
Thiên Ninh (Bà chúa kho) có 3 nghìn nữ binh. Khi Quách Quỳ, Triệu Tiết mang
quân sang Ðại-Việt, phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt tiến về Thăng-long. Quân Tống
nhập vào phòng đai phòng thủ chỉ cách Thăng-long có 25 cây số, bị công chúa đánh
bật trở về Bắc sông Như-nguyệt. Sau đó công chúa cùng 3 nghìn nữ kiệt đều tuẫn
quốc.
Hầu
hết các chi, khi nghe tôi nói rằng: Triều Trần kế tục triều Lý. Nhưng các vua
triều Trần đều dành ra một số ruộng đất lớn, cho tá điền cầy cấy, thu tô để làm
phương tiện hương khói, thờ cúng, tu bổ lăng tẩm 9 đời vua triều Lý… đều hài
lòng. Các triều đại kế tiếp như Lê, Nguyễn vẫn giữ nguyên truyền thống này. Mãi
đến năm 1956, trong cuộc cải cách ruộng đất, những ruộng đất này mới bị tịch
thu. Tuy nhiên đây là những di tích lịch sử, nên kể từ năm 1962, bộ Văn-hóa
miền Bắc Việt-Nam đã ban nghị định công nhận là di tích văn hóa, lịch sử, và
bảo quản rất kỹ.
Bác-sĩ
Diệp Oanh dẫn tôi thăm những vùng đất linh của giòng họ Lý. Thực là kỳ diệu,
dưới chế độ Cộng-sản cực đoan, chủ trương hủy diệt tất cả những gì là văn minh
của tổ tiên, để chỉ còn biết đến Mác, Lê, biết đến cha già dân tộc Kim Nhật
Thành. Thế nhưng giòng họ Lý vẫn giữ gìn được những di tích của tổ tiên. Nào
cửa biển Phú-lương giang nơi hạm đội của Kiến-bình vương cập bến Cao-ly, nào
Ung-tân, nơi đầu tiên họ Lý làm nhà ở, nào ngọn đồi Julhang thuộc xã Ðỗ-môn
(Tô-mơ-ki) nơi có lăng của Kiến Bình vương Lý Long Tường. Tôi cũng được lên
Quảng-đại sơn thăm Vọng-quốc đài, là nơi vương lên nhìn về quê hương.
Sau
đó, năm 1983, tôi lên đường đi Nam -hàn
để tìm hiểu thêm về giòng họ Lý. Tiếc rằng khi Lý Long Tường tới Hàn-quốc táp
vào miền Bắc, vì vậy dường như tại Nam-hàn không có một chút di tích nào của
ông. Giòng họ Lý sống tại Nam Hàn rất ít, tổng số chưa quá nghìn người. Họ cũng
giống như người Bắc hồi 1954 di cư vào Nam , mang theo rất ít di vật, gia
phả về tổ tiên mình. Không nhà nào mang được gia phả cổ. Gia phả mà họ cho tôi
xem, hầu hết là mới chép gần đây. Nội dung lại quá nhiều sai lạc. Như chép về
việc ra đi của Kiến Bình vương, gia phả nói rằng họ Lý bị Trần Thủ Ðộ cướp
ngôi, Lý Long Tường cầm quân chống lại, bị thua. Về Lý Chiêu Hoàng, họ chép là
hoàng hậu của vua Lý Huệ-tông! (3)
HỌ LÝ, HẬU DUỆ KIẾN HẢI
VƯƠNG, HAY HỌ LÝ TINH-THIỆN
Thế
nhưng, tại Nam-hàn tôi gặp ông Lý Gia Trung. Ông cho biết, tổ tiên ông là người
Việt, nhưng không thuộc giòng dõi Kiến Bình vương. Tổ tiên ông là Kiến Hải
vương Lý Dương Côn, đã đến Cao-ly hồi đầu thế kỷ thứ mười một.
Quý độc giả có biết tâm trạng tôi bấy giờ ra sao không ? Kinh ngạc, bàng hoàng,
đờ đẫn cả người ra. Vì trong khi nghiên cứu về triều Lý, tôi biết một huyền sử
vắn tắt như sau :
“Vua
Lý Nhân-tông không có hoàng nam, người nhận con của các thân vương trong hoàng
tộc làm con nuôi. Năm Ðinh Dậu (1117) nhận con của hầu Sùng Hiền, Thành Khánh,
Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng làm con nuôi. Sau truyền ngôi cho con của
Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán, tức vua Lý Thần-tông. Khi Lý Thần-tông băng,
Thái-tử Thiên-tộ còn bế ngửa, triều thần muốn tôn con của Thành Quảng hầu là Lý
Dương Côn lên nối ngôi. Cuộc tranh quyền trong giòng họ Lý diễn ra, sau vợ của
vua Lý Thần-tông nhờ có tình nhân là Ðỗ Anh Vũ giúp đỡ, mà loại hết các địch
thủ. Năm Canh Ngọ (1150) nhân vụ chính biến, Cảm Thánh thái hậu mưu với tình
nhân Ðỗ Anh Vũ giết hết tông tộc của các hầu Thành Khánh, Thành Chiêu, Thành
Hưng. Bấy giờ con Thành Quảng hầu là Kiến Hải vương Lý Dương Côn đang là đô đốc
Thủy-quân, bèn đem gia thuộc xuống chiến thuyền lưu vong. Song không biết đi
đâu (1150)”.
Bây giờ, sau 831 năm, tôi gặp lại hậu duệ của Kiến Hải vương. Tâm tư rúng động
! Hỡi ơi ! Tại Hàn-quốc có tới hai giòng họ Lý, gốc là thuyền nhân Ðại-Việt.
Tôi ghi chú tất cả những gì mà giòng họ Lý của Kiến Hải vương cung cấp để khi
viết về thời đại Tiêu-sơn còn có thêm tài liệu.
Cuối
năm 1996, một nhà nghiên cứu tộc phả nổi tiếng của Nam-hàn là giáo sư Phiến
Hoằng Cơ (Pyon Hong Ke) công bố kết quả cuộc nghiên cứu của ông rằng ông đã
phát hiện một giòng họ Lý thứ nhì, tại Ðại-hàn, được gọi là Lý Tinh-thiện.
Giòng họ này, chính là giòng họ Lý, con cháu Kiến Hải vương mà tôi đã có cơ
duyên gặp hậu duệ là ông Lý Gia Trung.
Giáo sư Phiến Hoằng Cơ cho biết, căn cứ vào gia phả của giòng họ này mang tên
Tinh-thiện Lý thị tộc phả, được lưu trữ tại thư viện Quốc-gia Hán-thành, thì
ông tổ của giòng họ Lý Tinh-thiện là Lý Dương Côn (Lee Yang Kon) tới Ðại-hàn
vào đầu thế kỷ thứ 12:
“Lý
Dương Côn hiệu là Nguyên Minh, hoàng tử thứ ba con vua Càn Ðức, được Tống triều
phong tước Nam-bình vương”.
Tra
trong sử Việt, thì vua Càn Ðức chính là tên của vua Lý Nhân-tông. Vua Lý
Nhân-tông là con của vua Lý Thánh-tông với Ỷ-Lan phu nhân, sau được tôn là
Linh-Nhân hoàng thái hậu. Người chỉ đạo cuộc đánh Tống, kháng Tống lừng danh
lịch sự Việt-Nam. Theo ÐVSKTT, Lý kỷ, Nhân-tông kỷ thì: “Niên hiệu Hội-tường
Ðại-khánh thứ 8 (DL.1117, Ðinh Dậu)…
…Tìm
con trai trong tôn thất để nuôi trong cung. Xuống chiếu rằng: “Trẫm cai trị
muôn dân mà lâu không có hoàng nam, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai?
Nên trẫm nuôi con của các hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu,
Thành Hưng, chọn người giỏi lập làm thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Dương
Hoán, lanh lợi, vua rất yêu, bèn lập làm Thái-tử”.
Vậy
thì Lý Dương Côn là con nuôi của vua Lý Nhân-tông, chứ không phải con đẻ. Con
nuôi thứ ba, thì là con của Thành Quảng hầu tên Lý Dương Côn, tước phong Kiến
Hải vương.
Giáo-sư
Phiến Hoằng Cơ dựa theo Tinh-thiện Lý thị tộc phả và bộ Cao-ly sử, ông công bố:
Hậu đuệ đời thứ sáu của Lý Dương Côn là Lý Nghĩa Mẫn (Lee Unimin) trở thành
nhân vật kiệt hiệt trong lịch sử. Bấy giờ Cao-ly đang ở dưới triều đại vua
Nghị-tông (Ui-jiong 1146-1170). Nhà vua rất sủng ái Lý Nghĩa Mẫn, phong cho
chức Biệt-trưởng. Nước Cao-ly trong thời gian này, phải chống trả với cuộc xâm
lăng của Khiết-đan tức Ðại-liêu, nên các võ tướng nắm hầu hết quyền hành. Năm
1170 tướng Trịnh Trọng Phu (Jeong Jung-bu) chưởng môn một võ phái, đảo chính
vua Nghị-tông lập vua Minh-tông (Mycong 1170-1179). Trọng Phu bị các võ phái,
võ tướng nổi lên chống đối. Lý Nghĩa Mẫn là người phụ tá đắc lực cho Trịnh
Trọng Phu, đem quân dẹp các cuộc nổi dậy. Ông được thăng chức Trung-lang tướng,
Tướng-quân, Ðại-tướng quân (1173), Thượng-tướng quân (1174), cuối cùng là Tây
Bắc bộ binh mã sứ (1178). Năm 1179, một võ quan khác là Khánh Ðại Thăng (Kyung
Dae-Seung) làm cuộc chính biến, giết chết Trịnh Trọng Phu, lên nắm quyền. Bấy
giờ Lý Nghĩa Mẫn giữ chức Hình-bộ thượng thư (1181). Vì ông thuộc phe Trịnh
Trọng Phu, nên bị nghi ngờ, chèn ép. Ông cáo quan về hưu.
Sau
khi Khánh Ðại Thăng chết, vua Minh-tông mời Lý Nghĩa Mẫn vào bệ kiến, được trao
chức Tư-không, Tả-bộc xạ, Ðồng-trung thư môn hạ bình chương sự tức Tể-tướng
trong 14 năm (1183-1196). Năm 1196, một phe võ tướng do Thôi Chung Hiếu (Cho
Chung Heon) cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết Lý Nghĩa Mẫn. Ba con ông là Lý
Chính Thuần, Lý Chí Vinh, Lý Chí Quang đều là tướng cầm quân, cũng bị giết
chết. Quân phiến loạn chỉ tha cho người con gái ông là Lý Hiền Bật. Giòng họ Lý
Tinh-thiện tưởng đâu tuyệt tự. Nhưng may mắn thay, giòng họ này còn kế tục là
nhờ người anh Lý Nghĩa Mẫn và các con không bị hại.
Phối
hợp chính sử với gia phả, giáo sư Phiến Hoằng Cơ kết luận rằng: Giòng họ Lý tại
Tinh-thiện thuộc đạo Giang-nguyên, phía Ðông Nam Ðại-hàn ngày nay là con của
hoàng tử Lý Dương Côn thuộc triều Lý, Việt-Nam (1010-1225). Lý Dương Côn bỏ quê
hương ra đi vì sự đe dọa của nước Kim đối với Tống, năm 1115. Tới năm 1127 thì
Bắc Tống bị diệt.
Qua
cuộc nghiên cứu của Phiến Hoằng Cơ, tôi thấy có đôi chút nghi vấn:
Một
là, vua Lý Nhân-tông nhận con nuôi năm 1117. Vua Thần-tông sinh năm 1116, vậy
thì Lý Dương Côn chỉ có thể sinh năm 1116 hay 1117 mà thôi. Năm Lý Dương Côn
rời Ðại-Việt ra đi là năm 1150. Bấy giờ ông mới 32-33 tuổi. Thế nhưng gia phả
Lý Tinh-thiện nói rằng năm 1170 Lý Nghĩa Mẫn, hậu duệ đời thứ sáu của Lý Dương
Côn, được vua Nghị-tông phong cho chức Biệt-trưởng. Ðây là điều vô lý. Bởi năm
đó chính Lý Dương Côn có còn tại thế thì ông mới có 54 tuổi, làm sao ông đã có
cháu 6 đời? Tôi thì tôi cho rằng Lý Nghĩa Mẫn là con Lý Dương Côn. Còn hậu duệ
đời thứ sáu là kể từ vua Lý Thái-tổ:
1.
Lý Thái-tổ.
2. Lý Thái-tông.
3. Lý Thánh-tông.
4. Lý Nhân-tông.
5. Kiến Hải vương Lý Dương Côn.
6. Lý Nghĩa Mẫn.
Hai
là, trong gia phả Lý Tinh-thiện nói rằng, Lý Dương Côn rời quê hương ra đi vì
quốc nạn. Giáo-sư Phiến Hoằng Cơ cho rằng vì sự đe dọa của Kim. Có lẽ khi giải
đoán việc ra đi của Lý Dương Côn, ông đã bị ảnh hưởng bởi sử Cao-ly. Vì hồi ấy,
nước Kim đang từ một bộ lạc Nữ-chân, nổi lên diệt nước Liêu, rồi đem quân đánh
Tống. Sau đó, họ bắt vua Tống mang về Bắc. Nhưng con cháu nhà Tống lại tái lập
triều Nam-Tống. Khoảng cách Kim với Ðại-Việt còn một nước Tống quá rộng, quá
xa. Dù Kim hùng mạnh cũng không ảnh hưởng gì tơí Ðại-Việt khiến Lý Dương Côn
phải bỏ nước trốn đi. Nhất là giai đoạn 1161 đến 1174, bấy giờ binh lực
Ðại-Việt đang mạnh, muốn hướng lên Bắc tái chiếm lại Quảng Ðông, Quảng Tây!
(xin đọc Anh-hùng Ðông-A dựng cờ Bình-Mông hồi 4 và hồi 16-17-18).
Lần
lại trang sử Ðại-Việt thời đó: Vua Thần-tông được vua Nhân-tông đem vào cung
nuôi cùng 4 người anh em họ. Nhưng ngài được lập làm Thái-tử, rồi lên ngôi vua.
Theo Hội-điển sự lệ triều Lý thì những chức như: Thái-úy, Tổng-lĩnh Thiên-tử
binh, Ðại Ðô-đốc Thủy quân, luôn trao cho các hoàng đệ. Vì vậy trong 5 con nuôi
của vua Lý Nhân-tông, thì Thái-tử Dương Hoán đươc truyền ngôi, còn 4 con nuôi khác,
là con của các hầu Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng ắt được
phong vào các chức trên. Con của Thành Quảng hầu là Lý Dương Côn được phong
tước Kiến Hải vương, lĩnh chức Ðại Ðô-đốc Thủy-quân. Khi vua Thần-tông băng
(1138), Thái-tử Thiên-tộ mới có 2 tuổi, triều thần muốn tôn hoàng đệ Lý Dương
Côn lên ngôi vua, vì ông là người thông minh, tài trí, đang là Ðại Ðô-đốc, ở
tuổi 22. Nhưng rồi mẹ của Thái-tử Thiên-tộ là Cảm Thánh hoàng hậu đã dùng vàng
bạc đút lót cho các quan, bà lại được tình nhân Ðỗ Anh Vũ là em của Chiêu Hiếu
thái hậu, (mẹ vua Thần-tông) hết sức ủng hộ. Thiên-tộ lên ngôi vua, sau là vua
Anh-tông.
Dĩ
nhiên vua Anh-tông lên ngôi, khi còn bế ngửa, thì mẹ là Cảm Thánh thái hậu
thính chính, nói khác đi là làm vua. Bà phải diệt hết những mầm mống có thể
nguy hiểm cho con bà. Bà cùng Ðỗ Anh Vũ vu cáo, giết hết các em nuôi của vua
Thần-tông là con của các hầu em vua Nhân-tông. Toàn gia các hầu, từ thê thiếp,
con, cháu, thân binh, nô bộc đều bị giết sạch. Riêng Lý Dương Côn đóng quân ở Ðồn-sơn,
được mật báo. Ông đem hết gia thuộc, xuống chiến thuyền, bỏ quê hương ra đi,
rồi táp vào Cao-ly.
Dù
Lý Nghĩa Mẫn là cháu 6 đời của Kiến Hải vương Lý Dương Côn hay là cháu 6 đời
vua Lý Thái-tổ, thì ta vẫn kết luận rằng: Năm 1150, Kiến Hải vương Lý Dương
Côn, lĩnh chức Ðại Ðô-đốc đã cùng tông tộc dùng thuyền tỵ nạn tại Cao-ly. Ðời
sau có nhân vật kiệt hiệt là Lý Nghĩa Mẫn, đóng một vai trò trọng yếu trong
lịch sử Cao-ly. Giòng họ Lý này, nay vẫn còn truyền tử lưu tôn tại Ðại-hàn.
DÒNG THỨ NHÌ, HẬU DUỆ CỦA
KIẾN-BÌNH VƯƠNG LÝ LONG TƯỜNG, CÒN GỌI LÀ LÝ HOA-SƠN
Giòng
họ Lý thứ nhì tới Ðại-hàn sau giòng họ Lý Tinh-thiện 76 năm, là hậu duệ của
Kiến Bình vương Lý Long Tường, con thứ 7 của vua Lý Anh-tông. Mà tôi đã trình
bầy ở trên.
Theo Trần-tộc vạn thế ngọc phả, của chi bốn, thuộc giòng dõi Chiêu-quốc vương
Trần Ích Tắc, để tại nhà từ ở thị xã Lãnh-thủy, huyện Chiêu-dương, tỉnh Hồ Nam,
Trung-quốc ; phần chép về Ninh-tổ hoàng đế Trần Lý. Có đoạn nói về các con vua
Lý Anh-tông, nguyên văn như sau :
Vua
có bẩy hoàng tử. Hoàng trưởng tử Long Xưởng do Chiêu Linh hoàng hậu sinh
vào niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 12 (DL.1151, Tân-Mùi). Ðược phong tước Hiển Trung
vương, lập làm Thái-tử. Niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo nguyên nhiên (DL.1174,
Giáp-Ngọ) bị giáng xuống làm con út, tước Bảo Quốc vương. Niên hiệu Trinh Phù
thứ sáu (DL.1181, Tân-Sửu) làm phản, bị hạ ngục, rồi bị Ðỗ An Di giết cả nhà,
thọ 31 tuổi. Hoàng-tử thứ nhì Long Minh do Thần-phi Bùi Chiêu Dương sinh vào
niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 11 (DL. 1152, Nhâm-Thân). Tước phong Kiểm-hiệu Thái-sư,
Thượng-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Trung-vũ quân tiết độ sứ, lĩnh đại
đô-đốc, Kiến Ninh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì
(DL.1175.). Thọ 24 tuổi.
Hoàng-tử
thứ ba Long Ðức, cũng do Bùi Thần-phi sinh niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 12 (DL.1153,
Quý-Dậu) ra. Chức tước phong như sau: Dao-thụ Thái-bảo, Khu-mật viện sứ,
Thượng-thư tả bộc xạ, Phụ-quốc thượng tướng quân, Long-thành tiết độ sứ, Kiến
An vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175), thọ 23 tuổi.
Hoàng-tử
thứ tư Long Hòa do Quý-phi Hoàng Ngân Hoa sinh niên hiệu Ðại Ðịnh thứ 11
(DL.1152, Nhâm-Thân). Chức tước phong như sau: Ðặc tiến Thiếu-sư, Khu-mật viện
sứ, Thượng-thư tả thừa, Trấn Nam
tiết độ sứ, Thượng-thư lệnh, Tả kim ngô thượng tướng, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh,
Kiến Tĩnh vương. Bị giết niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo thứ nhì (1175) thọ 24
tuổi.
Hoàng-tử
thứ năm Long Ích, do Ðức-phi Ðỗ Kim Hằng sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng thứ
5 (DL.1167, Ðinh-Hợi). Chức tước phong như sau: Dao-thụ Thái-phó, trấn Nam tiết độ sứ,
Thượng-thư tả thừa, Kiến Khang vương. Hoăng niên hiệu Kiến-gia thứ 2 (DL.1212
Nhâm-Thân), thọ 46 tuổi.
Hoàng-tử
thứ sáu Long Trát, do Thục-phi Ðỗ Thụy Châu sinh niên hiệu Chính-long Bảo-ứng
thứ 11 (DL.1172, Nhâm-Thìn), tháng 5, ngày 25, niên hiệu Thiên-cảm Chí-bảo
nguyên niên được lập làm Thái-tử. Năm thứ nhì được truyền ngôi. Băng niên hiệu
Trị-bình Long-ứng thứ 6 (DL.1210, Canh-Ngọ), ngày 28 tháng 10, thọ 38 tuổi.
Hoàng-tử
thứ bảy Long Tường do Hiền-phi Lê Mỹ Nga, sinh vào niên hiệu Chính-long Bảo-ứng
thứ 12 (DL.1174, Giáp-Ngọ). Ðức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh) phong chức
tước phong như sau: Thái-sư Thương-trụ quốc, Khai-phủ nghị đồng tam tư,
Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc, tước Kiến Bình vương. Niên hiệu
Kiến-trung thứ nhì đời đức Thái-tông nhà ta (tức Trần Cảnh), tháng tám, ngày
rằm, vương cùng gia thuộc hơn 6 ngàn người bôn xuất.
So
sánh giữa Tộc phả Hoa-sơn và Trần tộc vạn thế ngọc phả, có một chi tiết khác
nhau. Tộc phả Kiến Bình thì chép Kiến Bình vương là con thứ sáu vua Anh-tông.
Trong khi Trần tộc vạn thế ngọc phả lại chép vương là con thứ bẩy. Vì sao? Phả
Trần tộc chép theo huyết tộc, ai sinh trước là anh, ai sinh sau là em. Vì vậy
Kiến Bình vương là con thứ 7. Phả Kiến Bình thì chép thứ tự theo chỉ dụ của vua
Lý Anh tông, Long Xưởng bị giang xuống làm con út, thì Long Tường trở thành con
thứ sáu.
Hồi
đó Lý Long Tường dẫn tông tộc rời Ðại-Việt ra đi. Trần triều không biết đi đâu.
Nay chúng ta mới được biết vương với hạm đội bị bão phải ẩn ở Ðài-loan. Nghỉ ít
lâu, hạm đội của vương lại tiếp tục lên đường rồi dạt vào Cao-ly. Duy một người
con của vương tên Lý Long Hiền cùng gia thuộc hơn hai trăm người ở lại
Ðài-loan. Vương là khai tổ của giòng họ Lý tại Ðại-hàn, thế tử Long Hiền là
khai tổ của giòng họ Lý tại Ðài-loan hiện nay ? Sự kiện này tôi sẽ tìm hiểu
sau.
Tôi đã bỏ công sang Bắc cũng như Nam-hàn, tìm các chi, hậu duệ của Kiến Bình
vương Lý Long Tường, khảo gia phả của họ. Phần chi tiết tuy có sự khác biệt,
nhưng đại lược vẫn giống nhau. Tổng-thống Lý Thừa Vãn của Ðại-hàn là hậu duệ
đời thứ 25 của Kiến Bình vương Long Tường. Còn tổng thống Lý Ðăng Huy của
Ðài-loan có phải là hậu duệ của thế tử Lý Long Hiền hay không, thì tôi không
dám quyết, bởi Lý là giòng họ chiếm đa số ở Trung-quốc. Cả ba bộ sử ÐVSKTT,
VSL, KÐVSTGCM cùng chép rất mơ hồ về việc vua Anh-tông phế Long Xưởng lập Long
Trát. Nhà vua có tới bẩy hoàng tử. Nếu sự thực Long Xưởng phạm tội, phế xuống,
sao không lập các con đã trưởng thành, tài trí xuất chúng, đang cầm đại quyền
như Kiến Ninh, Kiến An, Kiến Tĩnh vương? Hoặc cùng quá, thì lập Kiến Khang
vương Long Ích, năm ấy đã chín tuổi? Mà phải lập Long Trát mới có 26 tháng làm
Thái-tử, rồi phải cử Tô Hiến Thành làm phụ chính? Cái khúc mắc này tôi đã giải
thích rất chi tiết, rất rõ ở hồi 21-23 bộ Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông.
Trong bài ngắn này không thể giải thích hết. Dưới đây là phần tôi thuật theo
Tộc-phả Lý Hoa-sơn: Niên hiệu Kiến-trung thứ nhì đời vua Thái-tông nhà Trần
(DL.1226, Bính Tuất), lo sợ bị Thái-sư Trần Thủ Ðộ hãm hại, vì vị thế trọng yếu
của mình: – Là con vua Anh-tông, em vua Cao-tông, chú vua Huệ-tông. – Thân
vương duy nhất nắm quyền hành. – Chức tước cực phẩm Thái-sư Thương-trụ quốc,
Khai-phủ nghị đồng tam tư, Thượng-thư tả bộc xạ, lĩnh đại đô đốc. Vương âm thầm
cùng Bình Hải công Lý Quang Bật từ căn cứ Ðồn-sơn về Kinh Bắc, lạy ở lăng miếu
Ðình-bảng. Lại đến Thái-miếu mang bài vị, các tế khí ra trấn Ðồn-sơn, rồi đem
hết tông tộc hơn 6 nghìn người, xuống hạm đội ra đi. Việc Kiến Bình vương ra
đi, có lẽ bắt nguồn từ việc ra đi của Kiến Hải vương trước kia chăng? Sau hơn
tháng lênh đênh trên biển, thì gặp bão. Hạm đội phải ngừng lại một đảo
(Ðài-loan?) rồi tiếp tục lên đường. Một trong các con của vương là Thế-tử Lý
Ðăng Hiền cùng vợ con ở lại đảo. Hạm đội lênh đênh trên biển một thời gian, thì
táp vào cửa Phú-lương giang, quận Khang-linh (Ong Jin-Gun) tỉnh Hoàng-hải
(Hwang-hac) thuộc Bắc Cao-ly. Nơi hạm đội táp vào, dân chúng gọi là Nak-nac-wac
có nghĩa là Bến của khách phương xa có đồ thờ cúng. Kỳ diệu thay, đêm hôm
trước, vua Cao-tông (Kojong) mơ thấy một con chim cực lớn bay từ phương Nam
lại đậu ở bờ Tây-hải. Tỉnh lại, vua sai người tới đó tìm kiếm, thì gặp hạm đội
của Kiến-bình vương. Kiến-bình vương được bệ kiến. Vương dùng bút đàm với vua
Cao-tông và các đại thần Cao-ly. Triều đình Cao-tông đối xử với vương rất tốt,
chu cấp lương thực. Cho làm nhà ở Ung-tân phủ Nam-trấn sơn (Chin-sang). Lý Long
Tường cùng tướng sĩ, gia thuộc bắt đầu cuộc sống mới. Trồng trọt, đánh cá, chăn
nuôi làm kế sinh nhai. Ông mở trường dạy học: Thi phú, lễ nhạc, tế tự, binh
pháp, võ thuật. Ông soạn sách Học vấn giảng hậu. Vì học trò đông, ông cho xây
Ðộc-thư đường, Giảng võ đường. Ðệ tử của ông lúc nào cũng trên nghìn người.
Tháng 7 năm Quý-sửu (1253) đời vua Cao-tông thứ 40, quân Mông-cổ xâm lăng
Cao-ly, vượt Hỗn-đồng giang, chiếm Tây-hải, phá An-giang Tây-thành. Về mặt
thủy, Mông-cổ chiếm các đảo Ðại-thanh, Tiểu-thanh, Sáng-lân, rồi tiến chiếm
Tây-đô (Giang-hoa). Thủ-đô Cao-ly bị đe dọa. Các tướng sĩ hầu hết bị tử trận.
Thấy tình hình Cao-ly nguy ngập, Kiến Bình vương đến gặp Thái-úy (tướng tổng
chỉ huy quân đội) là Vi Hiển Khoan, cố vấn cho ông về binh pháp Ðại-Việt. Ðích
thân vương cỡi bạch mã chỉ huy cuộc giữ thành: Ðắp thành cao lên, đào hào đặt
chông quanh thành. Trong thành đào giếng để có nước uống, tích trữ lương thảo.
Ông đem tất cả binh pháp Ðại-Việt trong những lần đánh Tống, bình Chiêm ra giúp
Cao-ly. Ðánh nhau suốt 5 tháng, quân Nguyên bị tuyệt lương thảo, bị chặn đường
rút lui, xin hàng (6). Tết năm ấy, toàn Cao-ly mừng chiến thắng. Triều đình
khen ngợi Lý Long Tường, lấy tên ngọn núi ở quê hương ông là Hoa-sơn; phong cho
ông làm Hoa-sơn tướng quân. Cho đổi tên ngọn núi nơi ông cư ngụ là Hoa-sơn.
(4). Nhà vua sai dựng bia ghi công ông trên núi Hoa-sơn, đích thân vua viết ba
chữ Thụ hàng môn (Cửa tiếp thụ giặc đầu hàng). Cho đến nay, sau 746 năm, trải
biết bao nhiêu mưa nắng, thăng trầm; tấm bia ấy vẫn trơ gan cùng cùng tuế
nguyệt, nhắc nhở du khách nhớ huân công của một Việt-kiều trên Hàn-quốc. Trong
dịp thăm Hoa-sơn năm 1981, tôi xin người đại diện tộc Lý cho phép được mượn thợ
khắc vào một phiến đá bài thơ cổ phong, đặt cạnh tấm bia trên, gọi là chút lòng
của người sau, tế người trước: Phúc tại Tiêu-sơn lĩnh, Thất đại bôn Bắc Cao,
Bình Mông danh vạn đại, Tử tôn giai phong hầu. Học phong nhân bất cập. Vọng
quốc hồn phiêu phiêu, Kim tải quá bát bách, Hà thời quy cố hương? (Ngài là
người họ Lý, được hưởng phúc tại ngọn núi Tiêu-sơn. Kể từ vua Lý Thái-tổ tới
ngài là đời thứ bẩy, phải bôn tẩu đến xứ Bắc Cao-ly. Nhờ chiến công đánh
Mông-cổ, mà con cháu ngài đều được phong hầu. Ngoài ra, ngài là người đem học
phong tới Cao-ly, công đức ấy không ai sánh kịp. Thế nhưng trải trên 8 trăm
năm, hồn ngài lúc nào cũng phiêu phưởng, không biết bao giờ được về cố hương
?). Ngày nay trên ngọn đồi Julbang thuộc xã Ðỗ-môn (Tô-mơ-ki) cách núi Hoa-sơn
10 cây số về phía Tây còn lăng mộ ngài và con, cháu cho đến ba đời. Trên
Quảng-đại sơn có Vọng-quốc đàn, nơi cuối đời ngài thường lên đó, ngày ngày nhìn
về phương Nam, ôm mặt khóc, tưởng nhớ cố quốc. Mỏm đá mà ngài đặt chân đầu tiên
lên bờ biển Cao-ly, được gọi là Việt-thanh nham, tức đá xanh in vết tên Việt.
Trên Hoa-sơn còn rất nhiều di tích kỷ niệm huân nghiệp của vương. Khi đến
Hoa-sơn hành hương, thay vì chào nhau, du khách được hướng dẫn viên du lịch dạy
cho nói câu: Hữu khách, Hữu khách, kỵ bạch mã. Nghĩa là Có người khách cỡi ngựa
trắng, tức Lý Long Tường. Cho đến nay, giòng họ Lý Hoa-sơn truyền trải 28 đời.
Tại Nam-hàn chỉ có khoảng hơn 200 hộ, với trên dưới 600 người. Tại Bắc-hàn thì
đông lắm, không thống kê được. Lý tộc tại Nam-hàn, hầu hết họ là những gia đình
có địa vị trọng yếu về giáo dục, kinh tế, kỹ nghệ. Kỳ ứng cử vừa qua, một ứng
viên Tổng thống họ Lý suýt trúng cử. Theo tấm bia trên mang tên Thụ-hàng môn bi
ký, thì Kiến Bình vương Long Tường có nhiều con trai, tất cả đều hiển đạt.
Không thấy nói tơí Lý Long Hiền, cùng tông tộc hơn 200 người ở lại Ðài-loan. Lý
Cán Ðại lĩnh Ðề-học nghệ văn quán, Kim-tử quang lộc đại phu. Lý Huyền Lương,
Tham-nghị lễ tào, Chính-nghị đại phu. Lý Long Tiền Giám- tu quốc sử. Ngày nay,
tại Bắc-hàn, cứ đến dịp tết Nguyên-đán, hậu duệ của Kiến Bình vương Lý Long
Tường khắp lãnh thổ Ðại-hàn đều kéo về Hoa-sơn để dự lễ tế tổ. Khởi đầu của
cuộc tế, đánh chín tiếng trống, gọi là Tâm-thanh để mọi người cùng tưởng nhớ cố
quốc. Theo gia phả của chi Thuận-xuyên, sở dĩ đánh chín tiếng, vì muốn ghi lại
triều Lý trải 9 đời vua, kể cả Lý Chiêu-hoàng. (4) Năm 1995, con cháu của Kiến
Bình vương Lý Long Tường, quy tụ hơn trăm người trở về Ðình-bảng, huyện
Tiên-sơn, tỉnh Bắc-ninh dự lễ hội làng vào ngày rằm tháng ba Âm-lịch. Tại thiên
chi linh, hẳn 9 đời vua triều Tiêu-sơn, cũng như Kiến Bình vương Lý Long Tường
đã thỏa nguyện: Những đứa cháu lưu lạc, nay trở về chầu tổ. Lời quê gửi tới
người Việt hải ngoại Hiện nay gần ba triệu người Việt lưu lạc khắp mọi góc
biển, mọi chân trời. Có nơi sống tập trung như Hoa-kỳ, Thái-lan, Cao-miên, Ai-lao , Canada ,
Úc, Pháp, Nga-sô. Có nơi sống rải rác cô độc như Do-thái, Irak , Gabon …
Nhìn vào tấm gương của hai giòng họ Lý tại Ðại-hàn. Dù con cháu quý vị không
còn nói được tiếng Việt. Dù con cháu quý vị đã kết hôn với người địa phương.
Nhưng quý vị phải luôn nhắc nhở cho chúng biết rằng: Chúng là người Việt, lấy
chủ đạo là con Rồng cháu Tiên.
Xin
qúy vị khẩn chép lại:
1. Nguồn gốc giòng họ mình từ làng nào, xã nào, tỉnh nào. Hoặc liên lạc với họ
hàng trong nước để xin bản sao gia phả.
2. Tiểu sử những tiền nhân. Nếu không nhớ được hành trạng của các tổ xa đời,
thì ít ra cũng chép được từ đời ông, đời cha.
3. Rời Việt-Nam ra đi vì lý do gì? Bắt đầu đến đâu? Lập nghiệp ra sao?
4. Mỗi năm vào dịp tết, quý vị sai đọc cho tất cả con cháu đều nghe.
5. Hằng năm, nếu có thể, khuyên con cháu, nên trở về quê hương, viếng thăm đất
tổ, thăm mồ mả tiền nhân. Khi về già, các vị sai chép ra thành nhiều bản, cho
mỗi con một bản. Vài lời thô thiển. Biết rằng các vị cho là thường. Thưa quý
vị, bây giờ là thường, nhưng sau đây trăm năm, nghìn năm, sự ghi chép của quý
vị sẽ trở thành quý báu vô cùng. Mong lắm thay! Cầu xin như vậy đấy. Yên-tử
cư-sĩ Trần Ðại-Sỹ
(Những
tài liệu tôi dùng để viết bài này rất phong phú, rất nhiều. Xin xem phần: Những
nguồn tài liệu, trong bộ Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông, quyển 1 )
_____________
(1) Trong chuyến đi này, Tổng-thống Ngô Ðình Diệm cho một sĩ quan tháp tùng, mà
người ưu ái vì lòng yêu nước, tin tưởng vì lòng trung thành là Dương Văn Minh.
Nhưng cũng tương đương với ngày tháng này, sáu năm sau, Dương Văn Minh tuân
lệnh Hoa-kỳ, giết chúa.
(2) Chế độ Cộng-sản cực đoan của Bắc-cao là một chế độ suy tôn lãnh tụ vào bậc
nhất thế giới, bậc nhất trong lịch sử nhân loại. Khi ăn cơm, sáng dậy, tối đi
ngủ đều đọc kinh tạ ơn Kim chủ tịch.
(3) Sau đó tôi đã giúp họ hiệu đính lại những chỗ sai lầm trong gia phả của họ.
(4) Tôi tra trong địa lý thời Lý, trên lãnh thổ Ðại Việt không có ngọn núi nào
tên Hoa-sơn cả. Có lẽ là núi Tiêu-sơn, nơi phát tích ra triều Lý chăng ?
(5) Chín đời vua triều Lý là: 1. Thái-tổ Lý Công Uẩn. 2. Thái-tông Lý Ðức
Chính. 3. Thánh-tông Lý Nhật Tông 4. Nhân-tông Lý Càn Ðức. 5. Thần-tông Lý
Dương Hoán . 6. Anh-tông Lý Thiên Tộ. 7. Cao-tông Lý Long Trát. 8. Huệ-tông Lý
Long Sảm. 9. Chiêu-hoàng Lý Phật Kim
(6) Có một sự trùng hợp. Năm năm sau, tháng 1-1258, Thái-sư Mông-cổ là
Ngột-lương Hợp-thai (Uriyang- qadai) đem quân đánh Ðại Việt, cũng bị tuyệt
đường lương, rồi bỏ chạy. Xin đọc Anh-hùng Ðông-a dựng cờ bình Mông hồi 50.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét