Thái
Bá Tân
LỜI
NÓI ĐẦU
Cuốn
Nhị Thập Tứ Hiếu
Được
viết vào đời Nguyên.
Tác
giả - Quách Cự Nghiệp,
Một
túc nho, người hiền.
Hai
mươi tư gương tốt
Về
đạo hiếu xưa nay
Ông
sưu tầm, chép lại,
Đưa
vào cuốn sách này.
Ở
nước ta, đời Nguyễn,
Dưới
triều vua Gia Long,
Cử
nhân Lý Văn Phức
Viết
lại, rất thành công,
Thành
song thất lục bát
Cả
hăm tư bài này.
Được
nhiều người truyền tụng
Và
đọc tới ngày nay.
Tôi
xin phép được chuyển
Thành
thể thơ ngũ ngôn,
Nôm
na và dễ hiểu,
Phù
hợp với trẻ con.
Ca
dao và truyện cổ
Gắn
liền với tuổi thơ.
Thiếu
nó, tâm hồn trẻ
Dễ
thui chột, cằn khô.
Mong
các bậc bố mẹ
Luôn
ghi nhớ điều này.
Hãy
đọc sách cho trẻ,
Đều
đặn và hàng ngày.
Hiếu
thảo là đức tính
Cần
có ở mỗi người.
Trẻ
được dạy từ nhỏ,
Sẽ
hiếu thảo suốt đời.
1
NGU
THUẤN
Vua
tên hiệu là Thuấn,
Quốc
hiệu là Đại Ngu.
Có
cha là Cổ Tẩu,
Tức
“mắt sáng mà mù”.
Vì
cha Ngài gàn dở,
Không
biết lý, biết tình,
Nên
người đời gọi thế,
Lên
án và coi khinh.
Mẹ
Ngài bệnh, chết sớm.
Mẹ
kế ác và lười.
Em
cùng cha khác mẹ
Thì
gian xảo hơn người.
Ba
người độc ác ấy
Tìm
cách hãm hại Ngài.
Nhưng
vốn rất hiếu thảo,
Ngài
không oán trách ai.
Vẫn
một lòng tôn kính
Và
cung phụng mẹ cha.
Cả
với đứa em xấu,
Ngài
vẫn rất ôn hòa.
Tấm
gương hiếu thảo ấy
Làm
cảm động đất trời.
Nên
Ngài được phù hộ
Mọi
lúc và mọi nơi.
Lần
nọ bị bố bắt
Cày
ruộng bên Lịch San,
Voi
kéo đến cày giúp,
Chim
nhặt cỏ từng đàn.
Lần
khác, hồ Lôi Trạch
Đang
gió lớn, sóng to,
Khi
Ngài đến đánh cá,
Nước
bỗng lặng như tờ.
Vua
Nghiêu, khi hay chuyện,
Bèn
truyền ngôi cho Ngài,
Còn
gả hai con gái,
Xinh
đẹp và lắm tài.
Mười
tám năm, Ngu Thuấn
Nổi
tiếng một vua hiền.
Chỉ
gảy đàn và hát
Mà
đất nước bình yên.
2
VĂN
ĐẾ
Vua
Văn Đế nhà Hán
Một
vị vua anh minh,
Nổi
tiếng rất hiếu thảo
Với
bố mẹ của mình.
Mẹ
Ngài, bà Bạc Hậu,
Ba
năm ốm liệt giường.
Trong
suốt ba năm ấy,
Ngài,
một đấng quân vương,
Với
áo bào ngũ sắc
Và
vương miện trên đầu,
Lễ
phép đứng bên cạnh,
Một
mình, không người hầu.
Suốt
đêm Ngài không ngủ,
Thay
quần áo, đổ bô,
Lo
thuốc thang cho mẹ,
Với
nét mặt buồn lo.
Vì
sợ có thuốc độc,
Trước
khi mời mẹ ăn,
Ngài
tự mình nếm trước,
Rồi
dỗ dành ân cần.
Nhờ
gương hiếu thảo ấy
Của
vị vua anh minh,
Dân
Hán cũng hiếu thảo
Và
đất nước yên bình.
3
TĂNG
TỬ
Tăng
Tử người nước Lỗ,
Tự
Tử Dư, tên Sâm,
Thời
Xuân Thu Chiến Quốc,
Có
tài và có tâm.
Ông
là học trò giỏi
Của
Khổng Tử, về sau
Thành
tứ đại đồ đệ
Của
thánh nhân Khổng Khâu.
Là
người rất chí hiếu,
Ông
chỉ chọn ăn rau,
Dành
thịt cho cha mẹ,
Luôn
kiên nhẫn đứng hầu.
Thức
ăn thừa, không hết,
Cha
mẹ bảo cho ai,
Ông
đem cho người ấy,
Không
bao giờ dám sai.
Một
lần, nhà có khách
Đến
thăm ông bất ngờ,
Mà
ông thì đi vắng.
Làm
thế nào bây giờ.
Mẹ
ông muốn ông biết
Để
nhanh chóng về nhà.
Bèn
quay đầu lặng lẽ
Cắn
vào ngón tay bà.
Dù
ở đâu, bà nghĩ,
Khi
mẹ cắn vào tay,
Thì
người con chí hiếu
Cảm
được cái đau này.
Quả
đúng thế, Tăng Tử
Đang
hái củi dưới khe,
Bỗng
thấy lòng đau quặn
Liền
vội vã quay về.
4
MẪN
TỬ KHIÊN
Là
học trò Khổng Tử,
Có
đức và có tài.
Không
may mẹ mất sớm,
Ông
bố lấy vợ hai.
Bà
này vốn độc ác,
Sinh
được hai người con,
Cũng
độc ác như mẹ.
Ông
luôn bị ăn đòn.
Là
một người có hiếu,
Ông
luôn vâng lời cha.
Dù
mẹ kế khắc nghiệt,
Ông
vẫn kính trọng bà.
Lần
nọ, trời giá rét,
Ông
kéo chiếc xe bò
Chở
cha đi công chuyện.
Trời
rét, bước co ro.
Nhiều
lần ông vấp ngã,
Thâm
tím cả mặt mày.
Cuối
cùng thì kiệt sức,
Ông
cúi gục, buông tay.
Bố
ông liền bước xuống,
Ôm
con trai vào lòng.
Chỉ
bấy giờ mới biết
Con
không có áo bông.
Thì
ra bà vợ kế
Bắt
ông khoác bao đay.
Hai
con bà thì khác,
Được
mặc áo bông dày.
Ông
tức giận, lập tức
Sai
quay xe về nhà.
Thẳng
tay đuổi bà vợ
Cùng
hai con của bà.
Mẫn
Tử Khiên thấy thế
Liền
quỳ xuống mà rằng:
“Xin
cha hãy nghĩ lại.
Trời
đang đầy tuyết băng.
Cả
ba người sẽ rét
Nếu
bị đuổi ra đường.
Nếu
họ được ở lại,
Thì
là chuyện bình thường
Chỉ
mình con chịu rét.
Con
chịu được; đang đêm,
Xin
cha hãy nghĩ lại,
Đừng
đuổi mẹ và em.
Ông
bố nghe, nguôi giận,
Không
đuổi nữa, còn khen.
Về
sau bà mẹ kế
Trở
thành bà mẹ hiền.
5
DIỄM
TỬ
Đời
nhà Chu , Diễm Tử
Nổi
tiếng thờ mẹ cha.
Nhà
nghèo, thường đứt bữa.
Bà
mẹ ông mù lòa
Một
hôm buột miệng nói
Thèm
uống sữa nai tươi.
Ông,
lúc ấy còn nhỏ,
Bèn
sang mượn nhà người
Bộ
da nai còn mới,
Giả
làm nai mói sinh,
Vào
rừng tìm nai mẹ,
Vắt
sữa cho mẹ mình.
Lần
sau, cậu chợt thấy
Một
bác thợ săn già
Dương
cung định bắn cậu,
Liền
vứt bỏ bộ da.
Bác
thợ săn khen cậu
Ngoan,
có hiếu, và rồi,
Săn
con dê vừa bắn,
Bác
hào phóng chia đôi.
7
LÃO
LAI TỬ
Lão
Lai người nước Sở,
Thời
Xuân Thu; là con,
Ông
đã bảy mươi tuổi
Mà
bố mẹ vẫn còn.
Là
người con chí hiếu,
Dù
đã là ông già,
Ông
vẫn rất tận tụy,
Chiều,
cung phụng mẹ cha.
Ông
mặc áo sặc sỡ,
Múa
hát như trẻ con,
Hoặc
giả vờ vấp ngã
Để
bố mẹ không buồn.
Tấm
gương hiếu thảo ấy
Được
truyền tụng muôn đời.
Hiếu
thảo là đức tính
Quí
nhất ở con người.
8
ĐỔNG
VĨNH
Sinh
vào thời Hậu Hán,
Đồng
Vĩnh, vốn nghèo hèn.
Bố
chết, nhà trống rỗng,
Không
gạo cũng không tiền.
Để
lo bề chôn cất,
Chàng
đến một nhà giàu,
Vay
tiền, hứa sẽ trả
Bằng
tiền dệt lụa màu.
Dệt
đủ ba trăm tấm
Mà
không lấy tiền công.
Sẽ
bắt đầu làm việc
Ngay
khi chôn cha xong.
Sau
tang lễ, bất chợt,
Trên
đường trở về nhà,
Bỗng
có một cô gái
Xinh
đẹp và nết na
Xin
kết duyên chồng vợ.
Với
điều kiện dệt xong
Cả
ba trăm tấm lụa
Nàng
mới về nhà chồng.
Cô
gái xinh đẹp ấy
Đi
đến nhà người giàu,
Ngồi
xuống dệt, dệt hết
Ba
trăm tấm lụa màu.
Rồi
nhẹ nhàng, lặng lẽ,
Cô
gái bay lên trời.
Nàng
là một tiên nữ
Được
phái xuống cõi người
Để
giúp đỡ Đồng Vĩnh,
Chàng
trai nặng nghĩa tình.
Không
quản ngại vất vả
Lo
chôn cất cha mình.
9
ĐƯỜNG
THI
Đường
Thi, người phụ nữ
Không
chỉ giỏi thờ chồng,
Mà
còn rất chí hiếu
Với
bà cụ mẹ ông.
Bà
cụ già, ốm yếu
Được
nàng dâu thương yêu
Còn
hơn cả mẹ đẻ,
Luôn
chăm sóc sớm chiều.
Không
ăn được cơm cứng
Vì
răng đã lung lay,
Nàng
tắm rửa sạch sẽ,
Cho
cụ bú hàng ngay.
Mấy
năm liền như thế,
Nhờ
bú sữa của nàng,
Bà
cụ vẫn khỏe mạnh,
Thậm
chí da mịn màng.
Lúc
chết, cảm ơn ấy,
Cụ
khấn Phật anh linh
Cho
ai cũng hiếu thảo
Như
nàng dâu của mình.
Lời
khấn đã công hiệu.
Nhà
họ Thôi sau này
Con
dâu đều hiếu thảo,
Hưởng
lộc lớn, phúc dày.
11
THÁI
THUẬN
Thái
Thuận nhà nghèo khổ.
Từ
bé mồ côi cha.
Thờ
mẹ rất hiếu thảo,
Nổi
tiếng khắp gần xa.
Một
năm nọ, đói kém,
Lại
đang buổi đao binh.
Ông
vào rừng hái quả
Nuôi
mẹ và nuôi mình.
Gặp
một bụi dâu dại,
Những
quả chín ngon lành
Ông
để riêng một chỗ.
Chỗ
khác để quả xanh.
Xích
My, một tướng giặc,
Thấy,
ngạc nhiên và rồi
Hỏi
vì sao làm thế.
Sao
phải chia làm đôi?
Ông
đáp: “Những quả chín
Để
dành cho mẹ ăn.
Những
quả xanh và chát
Thì
tôi ăn, nếu cần.
Tướng
giặc khen có hiếu,
Tặng
ông một thúng to
Loại
gạo ngon và trắng,
Kèm
thêm nửa đùi bò.
12
ĐINH
LAN
Sớm
mồ côi cha mẹ,
Đời
nhà Hán, Đinh Lan
Nổi
tiếng rất có hiếu
Và
là đứa con ngoan.
Ông
thuê người tạc tượng
Của
cả mẹ và cha.
Đặt
hai bức tượng gỗ
Trên
bàn thờ giữa nhà.
Ngày
cơm dâng hai bữa.
Tối
sửa soạn gối chăn.
Hệt
như ngày còn sống,
Hầu
hạ rất ân cần.
Mấy
chục năm như thế.
Vợ
ông sinh nản lòng,
Lấy
que nhọn châm mạnh
Vào
tượng mẹ cha ông.
Chỗ
châm ứa máu đỏ.
Hầu
cơm như hàng ngày,
Ông
thấy hai bức tượng
Rớm
nước mắt, chau mày.
Biết
thủ phạm là vợ,
Mặc
dù rất yêu bà,
Ông
xin lỗi bố mẹ,
Rồi
đuổi vợ khỏi nhà.
13
LỤC
TÍCH
Lục
Tích người Đông Hán,
Lên
sáu tuổi theo cha
Thăm
quan lớn Viên Thuật
Ở
Cửu Giang, Nhị Hà.
Trên
bàn tiệc hôm ấy,
Có
đĩa quýt, khi ăn
Cậu
nhón lấy hai quả
Rồi
cho vào túi quần.
Lúc
về, cúi chào chủ,
Hai
quả quít rơi ra.
Viên
Thuật thấy, đùa hỏi:
“Sao
lấy quít của ta?”
Cậu
đáp rất thành thật:
“Mẹ
cháu ốm đã lâu.
Cháu
biết bà thèm quýt,
Đem
về, có sao đâu.
Vả
lại, phần của cháu
Cháu
không ăn, hôm nay
Cháu
mang về cho mẹ
Hai
quả quít ngon này.
Viên
Thuật nghe, cảm động,
Còn
cho thêm nhiều quà.
Đích
thân ra tận ngõ
Tiễn
hai người về nhà.
15
HOÀNG
HƯƠNG
Hoàng
Hương, đời Đông Hán,
Nổi
tiếng tốt là người
Rất
chí hiếu - mẹ chết,
Khóc
thương mấy tháng trời.
Từ
đấy ông, chín tuổi,
Một
mình sống với cha.
Hầu
hạ cha rất mực,
Đảm
đang hết việc nhà.
Mùa
hè, ngày nóng bức,
Ông
đứng quạt bên giường.
Mùa
đông không củi sưởi,
Sợ
cha lạnh, Hoàng Hương
Quấn
chăn vào người trước,
Rồi
nhảy múa khắp nhà.
Chờ
đến khi chăn ấm
Mới
đem đắp cho cha.
Quan
thái thú cảm động
Bèn
viết sớ tâu lên.
Vua
Hán ban bốn chữ
Là
“Người con hiếu hiền”.
16
VƯƠNG
THÔI
Vương
Thôi người nước Ngụy.
Cha
làm quan, về sau
Tây
Tấn diệt nước Ngụy,
Cha
ông bị chém đầu.
Hàng
ngày, lòng đau xót,
Ông
phủ phục bên mồ,
Khóc
đến mức nước mắt
Làm
sống lại cỏ khô.
Vì
căm ghét Tây Tấn,
Mãi
mãi về sau này
Không
một lần, thà chết,
Ngoảnh
nhìn về phía Tây.
Vua
Tây Tấn xuống chiếu
Mời
ông làm quan to.
Ông
dứt khoát từ chối,
Ở
nhà làm thầy đồ.
17
NGÔ
MÃNH
Ngô
Mãnh, đời nhà Tấn,
Rất
hiếu với mẹ cha.
Lên
tám tuổi, nghèo đói,
Không
màn, muỗi đầy nhà.
Ông
cởi trần nằm ngủ,
Muỗi
cắn vẫn nằm yên.
Sợ
xua, muỗi bay đến
Cắn
bỗ mẹ nằm bên.
18
SƯU
KIỀM LÂU
Ở
nước Tề, Trung Quốc,
Có
chàng Sưu Kiềm Lâu
Được
bổ làm tri huyện
Một
huyện nhỏ vùng sâu.
Xe
ngựa vừa mới đến,
Nhậm
chức được mười ngày.
Ông
bỗng thấy lo lắng.
Mồ
hôi ướt lòng tay.
Linh
tính chắc có việc
Không
lành với mẹ cha,
Ông
treo mũ, từ chức
Vội
vã quay về nhà.
Cha
ông, quả đúng thế,
Đang
ốm, nằm liệt giường.
Thầy
thuốc nói: Người bệnh
Phân
đắng là bình thường.
Phân
ngọt là bệnh nặng.
Ông
liền nếm thân cha.
Thấy
ngọt, rất lo lắng,
Đêm
đêm ra hồi nhà
Thắp
hương khấn Bắc Đẩu,
Cầu
xin được chết thay,
Vừa
cấu khấn vừa khóc
Liên
tục mấy đêm ngày.
Một
hôm mệt, ngủ thiếp,
Ông
thấy có vị quan
Trao
chiếc thẻ có chữ
Là
“Sắc Tứ Bình An”.
Tỉnh
dậy, ông cúi đọc
Bốn
chữ trên thẻ vàng.
Hôm
sau bố ông khỏi
Mà
không cần thuốc thang.
24
HOÀNG
ĐÌNH KIÊN
Đời
nhà Đường, Trung Quốc,
Có
ông Hoàng Đình Kiên,
Làm
đến chức Thái Sử,
Nhà
lắm ruộng, nhiều tiền.
Đầy
tớ lại càng lắm.
Nhưng
tự ông hàng ngày
Đổ
bô cho bố mẹ.
Quần
áo tự ông thay.
Cũng
tự ông nấu nướng,
Cơm
nước cho hai người.
Tự
ông rửa bát đĩa.
Không
kêu ca một lời.
LỜI
KẾT
Đức
Phật đã từng dạy,
Ghi
trong nhiều bộ kinh -
Với
cha mẹ, con cái
Phải
có hiếu, có tình.
Đạo
làm người, chữ Hiếu
Là
cao quí nhất đời.
Người
mà không biết hiếu
Thì
không phải là người.
Hãy
dâng lòng hiếu thảo
Cúng
Phật và chư tăng.
Trong các quà dâng cúng
Trong các quà dâng cúng
Quả
không có gì bằng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét