Tác giả:
Sinh năm 1835 tại ý Yên, tỉnh Hà Nam, mất 1909 tại quê nhà. Nhiều lần thi
hương, thi hội không đỗ, mãi đến 1871 mới đỗ đầu thi hội và thi đình, học vị
hội Hoàng Giáp, được vua Tự Đức ban cờ biển và hai chữ Tam Nguyên, được bổ làm
Toàn tu sử quan trong triều. Cuối đời về ở ẩn dạy học. Tác phẩm: "Quế sơn
thi tập", "Tam Nguyên Yên Đổ thi ca".
Người dịch: Thái Bá Tân
Người dịch: Thái Bá Tân
Đêm thu ngắm trăng
Bốn
bề yên tĩnh một mình ta.
Phòng
văn tựa ghế, ngắm trăng tà.
Một
chiếc lá thu rơi, bay đến,
Gợi
biết bao nhiêu nỗi nhớ nhà.
Phu trạm
Suốt
ngày khênh cáng chẳng ngơi chân.
Phu
trạm, thân anh thật nhọc nhằn.
Nhưng
anh không biết người trên cáng,
Hai
chục năm qua lắm bụi trần.
Qua sông Tồn
Sông
Tồn nay trở lại.
Chiều
thu, lòng thêm sầu.
Sóng
lạnh ngoài cửa biển.
Sương
ướt trên lá dâu.
Tóc
bạc cùng năm tháng.
Trên
hồ lá thuyền câu.
Văn
nhân nhiều phiền muộn,
Đâu
riêng chuyện lên lầu.
Lên núi Ngũ Hành, viết thơ
để lại
Ngũ
Hành sừng sững vút lên không.
Xanh
tươi, rực rỡ tựa tiên bồng.
Sóng
biển lô xô, nhìn tít tắp.
Cửa
hang lơ lửng mặt trời hồng.
Nửa
đêm chuông điểm nghe ngưng đọng.
Đá
khóc từng hàng giọt lệ trong.
Chiêm
ngưỡng kỳ quan này tuyệt tác,
Tự
nhiên thư thái hẳn trong lòng.
Núi Long Đọi
Ở
giữa đồng bằng, ngọn núi xanh.
Nhấp
nhô nhà cửa bốn xung quanh.
Uốn
lượn con đường dài hút mắt.
Líu
lo chim hót, lượn trên cành.
Xa
xa xóm nhỏ vương mây khói.
Thân
già, mắt kém, khó đi nhanh.
Sướng
nhất trên kia, nơi mát mẻ,
Có
ông sư béo ngủ ngon lành.
Núi Dục Thúy
Ai
đặt tên Dục Thúy
Núi
đã có từ lâu.
Bên
sông ngôi chùa cổ.
Vách
núi một mái lầu.
Thăng
Phủ bia còn đó,
Sư
Tuệ Viễn ở đâu?
Xế
tà, thêm hoài cổ,
Chim
hót càng gợi sầu.
Đêm xuân, thương con thiêu
thân
Cánh
mỏng, thương ngươi phận yếu hèn,
Mà
dám quang minh chết trước đèn.
Hoảng
sợ chết liền là một nhẽ,
Ung
dung mà chết, đáng nêu tên.
Tri
năng trời phú còn chưa mất,
Chẳng
màng danh lợi đợi kề bên.
Đèn
dẫu giết ngươi, lòng vẫn xót,
Thành
tro, ngấn lệ đỏ còn hoen.
Cảm nghĩ nhân trung thu
năm Giáp Thân(1884) Hà Nội, viết gửi cho bạn đồng niên là ông cử họ Ngô
Cùng
nhau đón Tết ở đất này.
Giờ
đã mười năm, cảnh đổi thay.
Đèn
hồng, nến đỏ, hư mà thật.
Mũ
trắng, dù xanh ta lẫn Tây.
Tô
Giang sóng vỗ như tức giận.
Nùng
Lĩnh cô đơn mảnh nguyệt gầy.
Nghe
nói đi đâu giờ cũng cấm.
Có
nhớ lần ta dạo trước đây?
Sông Ghép
Lần
nữa qua sông Ghép.
Một
mái chèo chơi vơi.
Đàn
cò bay về tổ.
Vệt
núi vắt lưng trời.
Gió
giật, thuyền chao mạnh.
Cát
lún giữ chân người.
Khách
đi đường sợ nhất
Tiếng
sóng gầm ngoài khơi.
Cảm tác
Mười
hai năm lẻ được làm quan.
Những
mong ân huệ được vua ban.
Nhưng
hay đau ốm, thôi thì nghỉ.
Ngày
ăn một bữa, sống an nhàn.
Mình
nghỉ, nhiều người còn ở lại.
Về
nhà, con cháu chắc gì ngoan?
Từ
nay chỉ việc say và ngủ.
Chỉ
sợ đời sau chúng chê gàn.
Về nhà
Mười
năm xa cách, nay về nhà.
Tóc
bạc như sương, mắt lại lòa.
Cây
trong ngõ cũ nhìn khang khác.
Trên
trời chim lượn, nhận không ra.
Trẻ
con lễ phép: Chào ông ạ.
Các
cụ gật đầu: Ông đấy a?
Đêm
bên song lạnh ngồi im lặng.
Trời
khuya thấm đẫm ánh trăng tà.
Ban đêm, trò chuyên với
hai bạn học cũ là ông Đồng
và ông Tốn
Bốn
mươi năm trước học cùng nhau.
Gặp
lại hôm nay, bạc trắng đầu.
Anh
mải chơi cờ, anh đọc sách 1)
Đều
phường vô dụng, khác gì đâu.
Mẹ
già hai bác may còn khỏe.
Rủi
tôi hay ốm, mắt thường đau.
Nay
ta đánh chén, say nghiêng ngả.
Ngủ
gác lên nhau, chân lộn đầu.
__________
1).
Sách Trang Tử có chuyện Tang và Cốc cùng chăn dê và bị mất dê, vì người ham đọc
sách, người mê chơi cờ. Hai người hai lý do, nhưng kết quả là mất dê, ý nói
không ai hơn ai.
Mùa xuân, bị ốm
Bài một
Nhiễu
nhương thế sự, lão Nho già.
Bây
giờ ta mới hiểu thêm ta.
Tài
năng thực sự thua thằng ở.
Hư
danh hơn mấy mụ đàn bà.
Nằm
nhiều, bẳn tính thành đơn độc.
Đi
lắm, quẩn quanh trong xó nhà.
Sáng
bảnh, trùm chăn không chịu dậy,
Mặc
trời nắng đẹp, mặc chim ca.
Bài hai
Mới
xuân, sương sớm ướt bờ rào.
Đã
nghèo, mùa lại mất, buồn sao.
Hoa
chưa rụng hẳn, hương còn thoảng.
Thuốc
sắc vừa sôi, nước đã trào.
Buồn
chẳng muốn nghe con đọc sách.
Nghèo
không còn rượu để mời khao.
May
đêm có trận mưa nho nhỏ.
Dường
như bệnh tật giảm phần nào.
Tiếng dế đêm thu
Đêm,
trời đầy sao sáng.
Tiếng
dế kêu ngoài đồng.
Quyện
trong sương tháng Bảy,
Nghe
mà buồn mênh mông.
Át
cả tiếng trống điểm,
Chinh
phụ thêm nhớ chồng.
Thân
trai không được được để
Tiếng
dế làm mềm lòng.
Cảm nghĩ đầu xuân
Năm
mới đến rồi, năm cũ qua.
Cỏ
cây tươi tốt, vườn đầy hoa.
Sao
ta khô héo, toàn gân cốt?
Nhanh
thật thời gian, loáng đã già.
Giáp
Tý 1) không ghi vì không lịch.
Xuân
Thu 2) ngại đọc bởi thù nhà.
Tài
mình chỉ vậy, mong gì nữa,
Chống
gậy ra ngoài, ta với ta.
_______________
1).
Hai chữ đứng đầu can và chỉ dùng để ghi năm, tháng, ngày theo âm lịch. Vì tác
giả không còn làm quan, không được vua ban lịch, nên chẳng biết ghi vào đâu.
2).
Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, khen đại nghĩa nhà Chu, chê thói xấu kẻ
thù của nhà Chu . Tác giả ngẫm mình không làm
được như Không Tử để cứu nước nên thẹn mà không dám đọc Xuân Thu.
Thơ nhàn
Bạn
bè ai tốt để noi theo?
Làm
quan không giúp cho dân, nước.
Đọc
sách tu thân sáng lại chiều.
Xu
thời, trục lợi không khôn khéo.
Lương
tâm, trung thực vẫn còn nhiều.
Vậy
sao còn than nghèo và khổ?
Giàu
đạo, giàu thơ, nên chưa nghèo.
Tự thán
Đáng
thương ông già hơn năm mươi.
Mắt
đỏ, da đen, móm mém cười.
Thật
tội: ốm đau không được nghỉ -
Bận
ngủ, bận say và bận lười.
Danh
lợi đường đời không muốn biết.
Sắc,
không cõi Phật - chuyện giời ơi.
Là
thế đời ta, sao thế nhỉ?
Để
rỗi, bắc thang lên hỏi trời.
Mưa thu
Ngồi
bên cửa sổ, lắng tai nghe
Mưa
thu rả rích, mưa dầm dề.
Rót
mãi, cuối cùng vò hết rượu.
Lúa
ngập vì mưa, buồn ủ ê.
Ngủ
say, chuột cắn không hay biết.
Thích
chải vì đầu cứ ngứa, tê.
Con
đường phía trước mưa lầy lội,
Đành
buộc thuyền câu vào bụi tre.
Mưa tạnh
Mưa
dầm dề, gió thổi.
Bệnh
không giảm, cứ ho.
Tiếng
khàn như tiếng hạc.
Con
mèo lạnh, co ro.
Ngày
- đọc truyện Tần, Tống.
Đêm
- mơ đất Kinh, Ngô.
Rồi
mưa tạnh, hửng nắng,
Lòng
ấm, nhà cũng khô.
Sau khi say
Cái
ao nửa mẫu, tuổi năm mươi.
Say,
bên cửa sổ, cứ nằm chơi.
Lối
đi cỏ uốn thành đai áo.
Ao
bùn mặt nước cánh sen rơi.
Lúc
nhàn, chỉ rượu là tri kỷ.
Câu
thơ ngâm vặt chẳng cần người.
Xuân
tàn, mắt kém không nhìn rõ,
Chỉ
thấy lom lem sáng mặt trời.
Ngày hè thăm người anh em
bên ngoại
là bác Đặng, khi trở về
làm thơ
Chống
gậy, men theo lối cỏ dày,
Tới
thăm bác Đặng ở thôn này.
Râu
tóc cả hai đều điểm bạc.
Nửa
xóm bây giờ đã đổi thay.
Thấy
người, con chó nhà bên sủa,
Tránh
nắng, trâu nằm dưới gốc cây.
Thầm
khen thật khéo, ông trời khỏe,
Sáo
gió vi vu thổi suốt ngày.
Mạn hứng
Cáo
việc kinh đô, sống ở nhà.
Mấy
năm nghèo ốm chỉ mình ta.
Trước
cửa, mặt trời thu bóng ngắn,
Ngoài
sân, gió thổi khóm tre ngà.
Lão
nông biết ruộng cằn hay tốt.
Lái
buôn hiểu rõ đấu non già.
Hứng
lên, chỉ bạn cùng chai rượu,
Ngồi
nhìn ngọn núi phía trời xa.
Tự than thở một mình
Ngẫm
chuyện mười năm, lòng tái tê.
Sự
đời thay đổi, nhìn mà ghê.
Cá
ăn thịt cá vì tham lợi.
Cùng
một giống nòi, tre cột tre.
Ngày
nay khổ thế, do ai nhỉ?
Người
xưa ở ẩn bỏ về quê.
Nhắn
ai quen biết ngoài đô thị:
Đời
loạn mà sao chửa muốn về?
Đầu hè
Sáo
diều văng vẳng tự đâu xa.
Bên
ao, sen đã nở đêm qua.
Sáng
dậy không ngờ hè lại đến.
Trên
cành, đâu đó có chim ca.
Vợ
chết, nằm lo ông hàng xóm.
Cãi
nhau inh ỏi bốn năm bà.
Những
muốn dạo chơi cho khuây khỏa,
Nhưng
mắt lại đau, phải ở nhà.
Ngày hè hửng nắng
Được
ngày hửng nắng, ngước lên trông.
Trong
mây thấp thoáng mặt trời hồng.
Tằm
đói đòi ăn, đang tỉnh dậy.
Lúa
mới ngậm hơi đã trổ đòng.
Chú
bé lùa trâu thong thả bước.
Nhà
bên, ông lão lại thăm đồng.
Tựa
cửa một mình, ngồi uống rượu.
Quạ
về, tha rác lượn trên không.
Tiễn học trò là Nghĩa định
Sứ quân Lê Như Bạch, nhân tiện gửi các học trò ở kinh thành
Kinh
thành từ biệt, bảy năm sau,
Gặp
anh, nhớ bạn cũ từ lâu.
Gió
bụi mịt mờ, người một ngả,
Bây
giờ thấy mặt có ngờ đâu.
Nghĩ
đến bút nghiên, trào nước mắt,
Ngước
nhìn sông núi, những buồn đau.
Anh
về nhắn hộ người quen biết:
Huyền
án tiên sinh đã bạc đầu.
Ngắm cảnh chiều hè
Tháng
Tư, cái nóng đã gắt gay.
Sắp
giông, chim nháo nhác trên cây.
Phụ
nữ nuôi tằm lo chắn gió.
Người
nhà phơi lúa, dọn luôn tay.
Ham
việc, nhiều người còn cuốc xới.
Mặt
trời le lói giữa tầng mây.
Ai
ai cũng bận, không ai rỗi,
Xõa
tóc ngồi chơi chỉ lão này.
Nhớ núi Long Đọi
Ốm,
chẳng thăm chùa kể đã lâu.
Nhớ
cuộc chơi xưa, những luống sầu.
Chùa
cổ bốn bên, cây với đá.
Sư
nghèo, mây khói ngủ kề nhau.
Tre
bọc mấy tầng che mất lối.
Ai
đứng đợi thuyền bên bãi dâu?
Tiểu
đồng quên cả chuông giờ ngọ.
Ông
già nằm ngủ dưới gốc cau.
Tết trung thu không có
trăng, ba ngày sau
bỗng
nhiên trời tạnh, cảm tác
Không
nhiều sông núi chốn đồng quê.
Cảnh
buồn, gió lạnh thổi se se.
Trung
thu trời tối, không trăng sáng,
Khiến
lão già này thêm ủ ê.
Thơ
phú chua cay thành khiếm nhã.
Cảnh
nhuốm hơi thu thêm não nề.
Bất
chợt mây tan, trời lại sáng.
Một
bóng thuyền con bên khóm tre.
Hồ Hoàn Kiếm
Ba
mươi năm vắng, gặp bây giờ,
Cảnh
sắc ngày xưa đã nhạt mờ.
Nhà
tranh, cổng gỗ thành lầu đá.
Đêm
nghe tiếng súng, vắng đàn thơ.
Chim
én có về, quên chốn cũ.
Nơi
đàn cò ngủ khói như tơ.
Năm
trăm năm trước vùng văn vật,
Nay
sót một mình ngọn núi trơ.
Khóc vợ
Năm
mươi năm chẵn sống cùng nhau.
Hoa
hòe giấc mộng vụt qua mau,
Thành
giấc nghìn thu trong nấm mộ.
Ai
rồi cũng chết, khác gì đâu.
Có
thể những người trên cõi Phật
Không
thích người đời than khóc lâu.
Sống
tám trăm năm như Bành Tổ,
Phải
biết bao lần thêm khổ đau?
Tức sự
Một
mình bên cửa sổ.
Mưa
dầm, dài lê thê.
Rét
lâu, lúa chín muộn.
Mây
nặng, núi thấp tè.
Ngấm
nước, tường rêu mốc.
Rượu
nhiều, buồn ủ ê.
Không
biết xuân đã hết,
Một
con én bay về.
Nói chuyện với bạn
Xưa
theo thầy học cả hai ta,
Nay
tóc cả hai bạc, đã già.
Đời
lắm đổi thay, khôn nắm bắt.
Chẳng
ai trẻ mãi, tiếc chi mà.
Chuyện
mới ngày nào thành chuyện cũ.
Hãi
hùng giấc mộng dữ đêm qua.
Ước
gì có rượu Trung Sơn nhỉ,
Uống
say, tỉnh dậy đã thái hòa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét