Người
dịch:Thái Bá Tân
Tác giả: Sinh năm 1746
trong một gia đình đại quý tộc ở Thăng Long, mất 1803; từng giữ nhiều chức vụ
quan trọng trong triều Trịnh - Nguyễn, về sau theo và trở thành người trợ lực
chính của vua Quang Trung. Tác phẩm: hơn 600 bài thơ và 15 tác phẩm khác.
●Ba bài tứ tuyệt về mùa thu
Bài một
Chức
Nữ, Ngưu Lang không nhỏ lệ,
Chỉ
màng nước mỏng nhẹ như không.
Ra
trời cũng hiểu buồn ly biệt,
Không
bắt phòng khuê vợ nhớ chồng.
Bài hai
Sau
mưa, màu núi lại càng xanh.
Líu
ríu chim kêu, rộn lá cành.
Nhìn
chim bay nhảy sao mà nhẹ,
Thẹn
lòng còn nặng những hư danh.
Bài ba
Non
xanh nước biếc, lại non xanh.
Thăm
thẳm trời thu, ngọn gió lành.
Người
ở Giang Nam ,
lòng đất Bắc,
Thả
hồn theo gió với chim oanh.
----------------------------------------------------
Lên thuyền
Cảnh
đời thay đổi cứ trôi qua.
Nhìn
Yên, nhớ Việt (1)những xót xa.
Trường
Giang mây phủ, buồn man mác.
Một
mái chèo xua nỗi nhớ nhà.
________
(1) Yªn -
Yªn Kinh, chØ Trung Quèc, ViÖt - ViÖt Nam
Cuối xuân
Hoa
nở bên hang, nhụy trắng ngần.
Gió
chiều, ai dạo khúc Nam Huân.
Xuân
hết, nhiều loài hoa vẫn đẹp,
Vẫn
thầm ấp ủ những mầm xuân.
Nước mùa thu
Sau
mưa, trời nước sáng long lanh.
Cảnh
này thật khó vẽ nên tranh.
Vất
vả bao năm buồn trắng tóc,
Mấy
lần thả bộ ngắm non xanh?
Hoa cúc mùa thu
So
với muôn loài, cúc khác xa,
Trang
điểm mùa thu giữa nắng tà.
Ngày
này năm ngoái bên hoa cúc
Uống
rượu một mình, nhắm cánh hoa.
Đêm thu
Đêm
thu rét ngọt, gió se se.
Sương
buông, trăng sáng chếch bên hè.
Lạnh
lẽo tiếng chuông phòng quán trọ.
Người
buồn, bận nghĩ, chắc không nghe.
Tiếng đập vải mùa thu
Tiếng
chày đập vải lách qua sương,
Vang
vọng kinh đô, khắp phố phường.
Chắc
chẳng đến tai người lính thú,
Chỉ
làm khách sứ (1) nhớ quê hương.
___________
(1)
Ng« Th× NhËm ®i sø phư¬ng B¾c, ®ang n»m ë qu¸n
kh¸ch dµnh cho sø thÇn ë B¾c Kinh.
Trăng thu
Bên
song, uống rượu, ngắm hoàng hôn.
Lung
linh dưới nước mặt trăng tròn.
Định
lên cầu đá Lư Câu dạo,
Lầu
bên sáo vọng, khiến bồn chồn.
Phòng khuê mùa thu
Lạnh
lẽo phòng thu, tình khó quên.
Tự
tô phấn nhạt, tự làm duyên.
Bao
năm mong ngóng chồng chinh chiến,
Đêm
đêm lặng lẽ bói hoa đèn.
Cuối thu, vào chùa tham
thiền (1)
Tính
đốt, xa nhà đã mấy niên.
Nay
đến chùa làng ngồi tĩnh yên.
Cánh
vàng hoa cúc vừa bung nở.
Lá
bối (2) lần xem, thấy vi thiền.
Nam
Kha (3) giấc mộng đời bươn chải.
Trúc
Lâu (4) mơ ước cũ còn nguyên.
Chùa
thiêng tĩnh lặng, lòng thanh thản.
Sau
chùa, ao nhỏ thoảng mùi sen.
_______________
(1).
Vào chùa ngồi tĩnh tại để tham cứu chân lý. Nhà chùa gọi là “tham thiền nhập
định”
(2).
Lá cây bối-đa-đa ở Ấn Độ, dùng để viết kinh Phật.
(3).
Điển tích nổi tiếng trong văn học cổ Trung Quốc, nói về sự chóng vánh, bèo bọt
của cuộc đời.
(4).
Ý nói nhân duyên với Phật.
Bày tỏ nỗi lòng
Như
chim thảng thốt vút lên không.
Như
cá ngu ngơ lội giữa dòng.
Ngày
đếm thuyền câu trên bến cảng.
Đêm
cùng con trẻ ngắm trăng trong.
Tàu
chuối mưa rơi, buồn đất khách.
Gió
động cành dương, tỉnh giấc nồng.
Mừng
có giỏ cua ngon nhắm rượu.
Áo
cộc trên người như lão nông.
Thăm thư đường Vân Động
Vân
Động xa xa, nhẹ cánh thuyền.
Gió
mát lòng người, thuyền lướt lên.
Xóm
nhỏ ven sông, cây đưa đón.
Bến
bồi chim nhạn lượn hai bên.
Sáu
bảy ông say qua cầu gỗ.
Dăm
ba trẻ nhỏ thổi sáo, kèn.
Thư
đường liễu phủ, về Chu , Khổng (1),
Các
vị túc nho luận trước đèn.
____________
(1).
Chu Công và Khổng Tử.
Đi dạo dưới nắng quanh
ngôi chùa bên sông
Mùa
thu cúc nở, trời xanh trong.
Đi
dạo quanh chùa bên mép sông.
Nắng
nhạt ban mai, đường sạch sẽ.
Gác
thượng, lầu chuông dọi bóng hồng.
Phiêu
bạt mấy năm, giờ thanh thản
Với
vị cao tăng giải nỗi lòng.
Mải
chuốt vần thơ, quên đóng cửa.
Vái
chào cung kính, biệt sư ông.
_______________________________________________
Qua hai làng Mỗ, hoài cổ
Tiểu
dẫn của tác giả: Vũ Đế nhà Hán đặt tên quận này là Từ Liêm, đến đời Ngô, Tấn
đổi thành Ô Diên, ở địa phận hai xã Tây Mỗ và Thiên Mỗ ngày nay 1). Triệu Việt
vương Quang Phục giữ thành này, chống nhau với Dương Sán, tướng của Trần Bá
Tiên, sau chiếm được thành, xưng vương được 30 năm. Lý Nam Đế chiếm cứ thượng
lưu sông Thao, sai con là Nhã Lang lấy con gái Quang Phục là Ngốc Nương làm vợ,
lấy vùng thượng hạ Cát làm ranh giới. Sau đó Lý Nam Đế chiếm cả đất của Triệu Quang
Phục, giữ thành Ô Diên được 40 năm. Triệu Quang Phục chạy vào cửa biển Nghệ An,
đâm đầu xuống nước tự tử. Ngốc Nương oán Nhã Lang, thắt cổ chết trong thành.
Nhã Lang thương xót Ngốc Nương, chết theo vợ, chôn ở cánh đồng làng Thiên Mỗ,
nay chỗ có bia đá, đó là di trủng, đời trước có đền thờ Nhã Lang, nay không
còn, dân làng tương truyền gọi là bia mộ Phục Vương; lại còn ngoa truyền rằng
ban đêm nghe có tiếng đàn. Bia đã mòn hết chữ, nay không còn tra khảo được.2)
Thành
cũ Ô Diên nay chẳng thấy.
Bia
phủ rêu xanh, cỏ lấp đường.
Nghẹn
ngào khe nước, hồn Quang Phục.
Mưa
gió dập vùi mộ Ngốc Nương.
Thế
cuộc đổi thay theo cảnh vật.
Lang
quê cấy, dệt vẫn bình thường.
Lão
nông, không biết trò hưng phế,
Nói
vẫn thường nghe đàn Phục vương.
1).
Tức là vùng Đại Mỗ, Hà Nội ngày nay.
2).
Theo bản dịch nghĩa trong Tuyển tập Thơ Văn Ngô Thì Nhậm, quyển 1,
NXB Khoa Hoc Xã Hội, Hà Nội, 1978.
Thăm miếu Chu Văn Trinh 1), cảm hoài
Miếu
cổ, gò cao, đầm nước đầy.
Quang
cảnh hữu tình, chẳng đổi thay.
Nhà
dân thanh đạm, vườn, ao cá.
Thế
cuộc thăng trầm, chim bướm bay.
Dũng
cảm “mang gươm” 2), đầy khí tiết.
Nhẹ
nhàng “treo mũ”, tấm lòng ngay.
Cửa
tía, rêu xanh, ngôi miếu cổ,
Liễu
phủ hai bên, mát cả ngày.
______________________
1).
Tức Chu Văn An, lúc chết được phong tên thụy
là Văn Trinh.
2).
Chỉ việc Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy nịnh
thần.
3).
Chỉ việc ông can vua không nghe, xin treo mũ từ quan về quê ở ẩn.
Họa thơ với dật sĩ Phạm
Thì Thấu
Khách
đến rượu không, tiền cũng không.
Lấy
nước gì đây làm say lòng?
Nhà
cửa trống trơn nên sáng sủa.
Thanh
đạm tâm hồn như suối trong.
Khách
say đâu cứ cần mâm cỗ.
Gặp
suông, tri kỷ cũng tương đồng.
Càng
nghèo, thật lạ, thơ càng hứng.
Dũa
ý, gọt thơ, dòng lại dòng.
Buổi chiều, trên lầu Ngũ
Vân, nhìn ra xa
Lòng
người tươi sáng giống thiên nhiên.
Xế
chiều, hoa đổ bóng hàng hiên.
Cung
vương đứng lặng trong mây núi.
Chùa
Phật như trôi giữa khói thiền.
Nhao
nhác chim bay quanh lũy cũ.
Khe
rừng liễu rủ, đứng hai bên.
Tây
Bắc thành đô, nhìn chợt thấy
Khí
tốt núi Nùng đang bốc lên.
Đình trên núi
Sừng
sững trên cao một mái đình.
Giữa
trời sáng sớm nắng lung linh.
Muôn
vẻ cỏ hoa như dệt gấm.
Bốn
mùa gió thổi, thật đa tình.
Mây
núi vờn bay ngay sát cửa.
Trước
thềm hoa hé nụ xinh xinh.
Du
khách tới đây, nhìn ngây ngất.
Phong
cảnh nên thơ lại hữu tình.
Đi đường núi
Đường
núi quanh co, thêm gió lạnh.
Nơi
nào phong cảnh cũng nên thơ.
Hoa
rừng lặng lẽ khoe muôn sắc.
Chim
hót trên cây, thật bất ngờ.
Mưa
sáng, suối đầy, thêm róc rách.
Chiều
mây che núi, núi xanh mờ.
Dân
chúng ven đường luôn hiếu khách,
Háo
hức chạy ra xem lọng, cờ.
Nhàn rỗi, làm thơ bày tỏ
lòng mình
Quán
trọ ngồi không, cửa khép hờ,
Giũa,
gò tiêu khiển mấy bài thơ.
Tin
tức quê nhà thư đã viết.
Đường
đời, bói cỏ, đoán thời cơ.
Cửa
hầu sâu thẳm, không ai đến.
Lạnh
lẽo nhà quan, khách hững hờ.
Tóc
nhiều sợ bạc như mai trắng.
Về
quê những muốn, liệu bao giờ?
Họa thơ quan thái sử Thử
Đình Hầu
Suy
di tính lại mãi bên đèn.
Nghèo
đói, nhà nho chí phải bền.
Cuộc
sống vui buồn luôn lẫn lộn.
Muốn
giàu, danh lợi phải bon chen.
Biết
đủ, biết vừa là tốt nhất.
Dẫu
chuyện thế nào, tâm phải yên.
Tôi
bác quen nhau, tình gắn bó.
Biển
loạn, cùng chung một chiếc thuyền.
Tức cảnh
Bài hai
Mờ
mờ doi cát, xóm ven sông.
Đá
xếp chênh vênh, nước một dòng.
Gác
lầu thành dãy trầm ngâm đứng.
Cây
cỏ đua nhau mọc kín đồng.
Chim
hót mùa xuân thay tiếng nhạc.
Ráng
đỏ hoàng hôn làm nến hồng.
Hướng
tới nhà tiên nơi mây trắng,
Đời
tục ra sao chẳng bận lòng.
Tức cảnh
Bài ba
Thế
giới bao la có chỗ này,
Một
màu trăng trắng lẫn màu mây.
Dãy
núi nhấp nhô xen rừng rậm.
Lòa
xòa bến nước mấy hàng cây.
Bên
xóm hoa đào, thuyền kéo lưới,
Gió
vờn rặng liễu, cánh chim bay.
Mong
rũ bụi trần, không nuối tiếc,
Chút
đời còn lại sống nơi đây.
Ngắm cảnh trời nước buổi
chiều
Bát
ngát sen xanh, sóng bập bồng.
Trùng
điệp núi rừng ngút mắt trông.
Vệt
nắng ngang đồi đang lụi tắt.
Nước
trời hòa một, sắc xanh trong.
Văng
vẳng sáo chài đâu đó thổi.
Khói
mờ trăng nhú xóm ven sông.
Ngắm
cảnh trời chiều, thơ chợt hứng.
Mờ
ảo đằng tây nửa ráng hồng.
Chiều tối chơi thuyền
trên sông Nhuệ
Cuộc
dạo lần này thật khác xa.
Trời
thu, nước lặng, cảnh chiều tà.
Sao
thưa mấy chấm, thuyền đơn độc.
Dòng
sông như lụa, trải bao la.
Trên
cây cổ thụ còn vương nắng,
Ánh
lửa bên sông đã lập lòa.
Lâu
đài "Bất Dạ" 1) tìm không thấy.
"Linh
đài" 2) đức độ sáng trong ta.
________________
(1) BÊt D¹ - kh«ng cã ®ªm, tøc lµ ban
®ªm còng s¸ng như¬ ban gµy. Tư¬ng truyÒn ®Êt §«ng Lai nưíc TÒ ban ®ªm còng cã mÆt
trêi mäc. Lai Tö x©y thµnh ë ®ã, gäi lµ l©u ®µi BÊt D¹.
(2) S¸ch Trang Tö gäi tr¸i tim lµ Linh
®µi, tøc ®µi thiªng liªng.
Thăm chùa Vân Môn 1)
Xuân
đến thăm chùa ở mé sông.
Ngôi
chùa đổ nát phủ rêu phong.
Mưa
hắt, Phật ngồi nhìn lặng lẽ.
Không
khói, không hoa, sư cũng không.
Đây
vốn là nơi xưa đệ tử
Chân
tu, xua ác, thảnh thơi lòng.
Nay
đêm kẻ xấu thường lui tới.
Mắt
Phật tinh tường, có thấy không? 2)
____________
(1) Chïa ë huyÖn Vò Thư¬, Th¸i B×nh.
(2) Theo chó thÝch nguyªn b¶n, chïa nµy
bá hoang, l©u nay lµ n¬i tô tËp cña bän trém cưíp.
Miếu cổ
Miếu
thờ hoang phế đã lâu nay.
Mái
sập, bia mờ vứt đó đây,
Lạnh
ngắt, lò hương đầy mạng nhện.
Tường
đổ, rêu phong mấy lớp dày.
Đêm
trước mưa rơi lên núi lạnh.
Nắng
chiều giờ sót lại trên cây.
Muốn
hỏi mà không người để hỏi,
Chỉ
thấy trên trời mây trắng bay.
Tiếng nước
Vốn
thường im lặng, nước trên sông
Sao
réo ầm ầm tựa bão dông?
Lúc
bị cản đường, sông mới giận,
Còn
không, lặng lẽ cứ xuôi dòng.
Điềm
tĩnh, bao dung, không hám lợi,
Không
chịu cúi đầu trước bất công.
Như
tấm gương soi cho kẻ sĩ,
Ngời
ngời ánh bạc nước xanh trong.
Chùa cổ
Năm
tháng dãi dầu, chùa vẹo xiêu.
Thanh
u suối nước, cảnh tiêu điều.
Lạnh
lẽo bếp chay, vườn cỏ dại.
Lên
thềm mưa hắt, gió heo heo.
Chim
thước lượn quanh, tìm chỗ trú.
Thắp
hương lặng lẽ vị sư nghèo.
Chùa
xưa héo lụi cùng năm tháng,
Hết
nắng ban mai lại nắng chiều.
Con ngựa vô tích sự
Gặm
cỏ no căng suốt cả ngày.
Tối
về chuồng ngủ, sướng thân mày.
Nhàn
nhã chỉ nhờ vô tích sự.
Quả
đời kỳ cục thế xưa nay.
Nếu
là ngựa tốt, phi thiên lý,
Chắc
chắn đời mày sẽ đổi thay.
Chẳng
trách người tài hay gặp nạn.
Những
kẻ ngu đần thường gặp may.
Ngẫu hứng về mảnh ao nhỏ
trước nhà
Một
mảnh ao tù, nước lại vơi.
Mấy
con cá nhỏ tự do bơi.
Gió
thổi mà ao không gợn sóng.
Bốn
bề cây chắn, cỏ xanh tươi.
Ai
người biết tỉnh, lo công việc?
Ta
cũng chưa say bỏ sự đời.
Giá
giống ao này, đâu cũng lặng,
Ta
sẽ lên thuyền đi khắp nơi.
Bài ngâm đêm trăng
Bóng
cây bên cửa ánh trăng lồng.
Tiếng
kèn đổi gác vọng tầng không.
Nghìn
dặm xa quê không ngủ được.
Khúc
ngâm bất chợ xốn xang lòng.
Tham
sân 1) kiếp trước chưa trừ hết,
Kiếp
này danh lợi lắm long đong.
Mong
chóng đến ngày thôi loạn lạc,
Để
lại quay về với núi sông.
_________________
(1)
Danh từ Phật, chỉ sự tham lam, giận dữ.
Thương vợ
Tiếc
xưa không nối nghiệp nhà nông.
Cày
cấy bên nhau, vợ với chồng.
Nay
hám công danh, chồng vất vả.
Dắt
con chạy nạn, vợ long đong.
Chức
Nữ sông Ngân đành cách biệt.
Hằng
Nga tháng Tám ngậm ngùi mong.
Cái
đạo phu thê luôn giữ trọn.
Thúc
Cơ 1) gương sáng, chẳng thay lòng.
____________________
(1)
Con gái vua nước Lỗ và là vợ vua nước Kỹ. Vua nước
Kỹ bị vua Tề ức hiếp phải chết. Thúc Cơ từ nước
Lỗ về nư¬ớc Kỷ để phụng sự tổ tiên chồng đến
trọn đời. Trong kinh Xuân Thu, Khổng Tử chép lại
chuyện này và rất ca ngợi nàng.
Mưa dầm ở đảo Huyền Trân
Công
chúa Huyền Trân lệ ngắn dài.
Ngoài
thành mưa nhỏ ướt cành mai.
Chồng
Man xấu số 1) làm nhơ ngọc.
Nước
nhà bạc nghĩa, xót lòng ai.
Lễ
cưới hai châu 2) vì một nghĩa.
Gãy
gánh một đời, khổ gấp hai.
Oán
giận triều lên, dâng bốn phía,
Nước
mắt như mưa rả rích hoài .
___________________
(1)
Chỉ Chế Mân, người thuộc bộ tộc man di theo quan điểm phong kiến thời trước.
Chế Mân lấy Huyền Trân được một năm thì chết, nên gọi là xấu số.
(2)
Tức châu Ô và châu Lý đất Chiêm, được Chế Mân dâng cho nhà Trần làm sinh lễ.
Hoa dâm bụt trong cung
vua
Những
cánh hoa tươi trước cửa rồng,
Đỏ
rực một màu với gió đông.
Không
hương nên chẳng ai ghen tỵ,
Không
điệu, không kiêu, dẫu má hồng.
Tướng
sắc khác thường, hoa của Phật.
Xuân,
loài khác rụng, chỉ mình không.
Đỏ
rực không vì khoe sắc đẹp,
Mà
chỉ dâng vua một tấm lòng.
Đi thuyền trên cửa biển
Nhật Lệ
Chập
chiều, thuyền tới cửa Ô Long,
Ngân
Hà một dải vắt trên không.
Từ
xa chim nhạn bay về ngủ.
Văng
vẳng sáo chài ngoài bãi sông.
Sách
đầy một tráp, sao chi chít.
Buồm
lớn căng dây, gió thổi phồng.
Hai
bên đê lớn, thuyền đi tiếp.
Tử
Vi sao sáng một khối hồng 1).
_______________
(1) Chßm sao ë phư¬ng B¾c, n»m phÝa ®«ng sao B¾c §Èu. C¸c nhµ thiªn v¨n ngµy xưa coi chßm sao nµy øng víi ng«i vua chóa ë h¹ giíi.
Lên núi Mẫu Tử 1)
Người
ngựa lên đường lúc rạng đông.
Vượt
mấy tầng cao, lớp lớp chồng.
Hai
núi liền nhau, hòn Mẫu Tử.
Bên
dòng suối nhỏ nước xanh trong.
Mắt
ngước nhìn quanh toàn thấy núi.
Đầu
ngẩng tóc xòa trước gió đông.
Núi
này được tạo bao giờ nhỉ?
Muốn
nhờ Khóa Phủ 1) hỏi Ngu Công 2).
_________________
1).
Núi này ở Lạng Sơn.
2).
Tên một vị thần.
3).
Tên một nhân vật trong thần thoại Trung Quốc quyết tâm dời núi mở đường.
Buổi sớm, từ núi Thanh
Sơn 1)
ngắm
cảnh xung quanh
Đi
sứ, tạm dừng núi Nhị Thanh.
Sáng
giục người xe sớm khởi hành.
Thấp
thoáng trong sương hình cây cỏ.
Líu
lo chim hót rộn trên cành.
Xóm
xa giấc ngủ chưa tan hẳn.
Đồn
bên trống giục báo năm canh.
Bất
chợt mặt trời nhô, đỏ rực,
Xua
hết mây mù, lộ núi xanh.
_______________
(1) ChØ nói NhÞ Thanh ë L¹ng S¬n. Ng«
Th× NhËm viÕt bµi nµy vµ nh÷ng bµi sau trong thêi gian ®i sø Trung Quèc.
Ghi lại cảnh đẹp ở Nhạc
Dương
Tiểu
dẫn của tác giả:
Tôi
từng nghe các vị tiền bối đi sứ về kể lại cái vui thuận gió khi qua hồ Động
Đình. Lần đi sứ này, cuối xuân đến đất Sở, được chiếu chỉ của Đại Hoàng Đế giục
vào chầu, nên phải vội vàng đi gấp. Lúc đến sông Tương thì gió đông đang mạnh,
đi đường thủy không tiện, phải đi đường bộ. Đến đầu mùa thu trở về, khi tới Hán
Khẩu, định ngược dòng đi lên nhưng nước lũ lớn, chảy mạnh như mũi tên, nên
không thể đi được, lại phải từ Vũ Xương đi đường bộ về đất Việt 1). Thế mới
biết cái vui thuận gió chơi hồ là khó khăn nhường nào.
Lầu
Nhạc Dương 2) ở về phía đông hồ và phía tây thành Nhạc Châu. Lúc đến
Nhạc Châu, tôi cùng các bạn đồng sự lên lầu, buông mắt nhìn xem phong cảnh, thì
thấy hồ quang nước lặng, muôn khoảnh một màu, nhìn hết tầm mắt không thấy bờ
đâu cả. Xa trông núi Quân Sơn vút lên từ trong sóng, thật là một non thúy La
Phù lồng vào nơi nền gấm. Tôi ngắm nhìn hồi lâu, muốn tìm thuyền ra
chơi núi, nhưng mặt trời đã lặn về tây nên chỉ có thể đứng ở lầu mà vời trông.
Tôi đem nguyên ủy của hồ hỏi người lại mục ở đó thì người ấy nói: “Phía tây hồ
giáp với Vân Nam ,
Quí Châu, gặp gió thuận thì ba ngày từ bờ đông có thể đến bờ phía tây. Phía tay
bắc thông với Tứ Xuyên, phía đông bắc chảy vào Hán Dương, phía tây
nam là các bãi ở Trường Sa, nước sông Tiêu, Tương chảy qua đổ vào hồ
vậy.
Ôi!
Hồ này trở nên rộng lớn như vậy, chẳng phải là do sức nước của nhiều dòng sông
tạo thành sao? Nhiều dòng nước tụ lại thành hồ, đó chẳng phải là cái khéo của
tạo hóa sao? Cái khéo của tạo hóa, vẽ chẳng hết ý, viết chẳng hết lời, người
biết góp nhặt lại mà điểm xuyết ra, há chẳng phải là cách nhìn của người thông
đạt đó sao?
Ta,
lòng trần chưa sạch, thói tục còn mang, tạo hóa tạo ra lắm chốn lạ kỳ mà tiếc
mắt ta nhìn còn chưa được bao quát. Đến như khói mây cảnh vật, ánh nước sắc
núi, chim chóc bay lượn, cá rồng ẩn hiện, lâu đài liên tiếp, tàu thuyền đi về,
di tích thần tiên, cảnh đời hiện tại, thì ta nói ra không khỏi vụng về, chỉ
riêng lòng ta lĩnh hội được mà thôi. Lúc ấy, Hy Sử công xướng lên trước, ta gặp
cảnh sinh tình, chẳng quản theo đòi bèn nối thành bốn vận: 3)
Hồ
lạnh chiều thu, nước trắng phau.
Cảm
xúc lâng lâng, đứng tựa lầu.
Núi
xanh vời vợi, trăng chưa mọc.
Chân
trời một vệt ráng vàng au.
Rồng
nằm Động Phủ trong mây trắng.
Chim
đến Hành Sơn khoe sắc màu.
Tạo
hóa kỳ tài làm sông núi,
Chỗ
lồi, chỗ lõm thật đều nhau.
_______________
1).
Chỉ Quế Lâm, Quảng Tây.
2).
Nằm ở phía tây huyện thành Nhạc Dương, nhìn xuống hồ Động Đình.
3).
Bản dịch của Tuyển tập Thơ Văn Ngô Thì Nhậm, quyển môt, NXB Khoa Học Xã hội, Hà
Nội, 1978.
Ngắm cảnh chiều trên sông
Lệ Giang
Hoàng
hôn, thật khó nói nên lời
Vẻ
đẹp thiên nhiên của đất trời.
Dòng
sông hai nửa, xanh và đỏ.
Núi
màu đậm nhạt, khác từng nơi.
Chim
bay về tổ, rung cây lá.
Cá
nhảy, vây vàng chỗ thác rơi.
Lại
thêm ý vị: đôi ba tiếng
Chuông
chùa thong thả, tựa đang rơi.
Lại qua chùa Thiền Lâm
Chính
sự, việc đời luôn đổi thay.
Vẫn
nguyên mọi cái ở chùa này.
Cây
mục là gương cho kẻ ác.
Vực
đá răn đe kẻ hại thầy.
Tượng
Phật vàng son luôn tỏa sáng.
Việc
đời phải trái tựa mây bay.
Nay
qua chốn cũ, buồn trông lại.
Rót
chén rượu thiền đuổi gió tây 1).
(1) Vư¬ng §ào ®êi TÊn khi gÆp giã
t©y næi lªn th× lÊy qu¹t che mµ nãi: "C¸i giã nµy cña NguyÔn Quy lµm d¬
bÈn con ngưêi. Quy lµ cËu cña vua Thµnh §Õ nhµ TÊn, bÞ chª cưêi tham lam, kh«ng ®¹i nghÜa.
Ghi điều trông thấy ở Nam Ninh
Nam
Ninh, còn gọi Tiểu Nam Kinh.
Nhà
nhà sung túc, gái thì xinh.
Bên
đường, cửa sổ rèm che nắng.
Lầu
soi bến nước, đuốc lung linh.
Nước
ngã ba sông trong thấy đáy.
Bảy
núi cờ treo, thật hữu tình.
Đời
thịnh, quan nhàn, không có việc,
Hết
ngắm chim công, lại luận bình.
Nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa
Chỉ
một mình ông biết
Ba
cái vui làm người.
Sống
nghèo không lo nghĩ.
Chết
già lòng thảnh thơi.
Bên
Đông Sơn mót lúa
Vui,
hát vang đất trời.
Chuyện
xưa người vẫn nhớ.
Tiếng
thơm lưu muôn đời.
Nhàn rỗi, làm thơ về cảnh
đẹp Hành Dương
Từng
nghe thu đẹp ở Hành Dương,
Khi
đến, mưa xuân thấm ướt đường.
Hùng
vĩ, chỉ cần xem cảnh vật.
Phồn
hoa, nhộn nhịp chuyện công thương.
Sở,
Việt, núi xanh soi suối biếc.
Hai
dòng uốn lượn, nước Tiêu, Tương.
Thiết
nghĩ, thu về, thêm cánh nhạn,
Đâu
chỉ Bồng Lai mới thiên đường!
Buổi sớm, lên thuyền đi
từ Tuyền Châu
Trên
sóng Trường Giang mấy cánh chim
Chợt
vụt bay đi, nháo nhác tìm.
Nước
đập vào bờ, sông chảy mạnh.
Bên
thuyền sóng vỗ chẳng hề im.
Cuộc
đời luân chuyển không vô cớ.
Chẳng
dễ lừa đời, dối trái tim.
Sách
dăm ba quyển, lòng ta nhẹ,
Như
chiếc thuyền không, chẳng sợ chìm. 1)
____________________
(1) Trang Tö cã c©u: DÜ trung tÝn nhi tÕ
n¹n, nhưîc thõa hư chu dÜ thiÖp
xuyªn", nghÜa lµ "lÊy ®¹o trung tÝn mµ vưît qua dßng s«ng".
Nhàn rỗi, vịnh cảnh sông
Lệ 1)
Đê
dài, núi đá vút lên cao.
Ven
làng khóm trúc phủ bờ ao.
Hàng
cây rợp nắng, chim ca hót.
Bến
xưa cá quẫy sóng rì rào.
Dưới
sông đò lưới nhiều dân Ngạn, 2)
Trên
bờ bán củi lắm người Dao.
Sông
Lệ nước dâng, thuyền lướt nhẹ,
Như
giữa Ngân Hà, dưới ánh sao.
_______________
(1) Cßn gäi lµ LÖ Giang hoÆc T¶ Giang,
mét con s«ng ë tØnh Qu¶ng T©y, Trung Quèc.
(2) ë Qu¶ng T©y, ngưêi Miªu vµ ng¬ưêi Dao ë lÉn lén. Ngưêi Trung Quèc gäi ng¬ưêi Miªu lµ ngưêi Ng¹n.
Thơ đề ở am Vạn Niên,
theo vần bài
“Nhất thủy” của Vũ Công
Bộ
Thảnh
thơi trong bận rộn.
Cõi
Phât có mà không.
Vườn
thiền động mà tĩnh.
Buồn
mà vẫn vui lòng.
Hưởng
ân sâu Tứ Đại 1).
Tam
Thừa 2) rèn khổ công.
Chưa
gặp mặt trò chuyện,
Nhưng
đã đọc thơ ông.
_________________--
1).
Chữ nhà Phật, tức địa, thủy, hỏa, phong, cả bốn nguyên tố hòa hợp thì con người
mới tồn tại.
2).
Khái niệm nhà Phât, gồm thượng thừa, trung thừa và hạ thừa.
Mùa thu, đi thuyền trên
sông Ly Giang 1)
Đón
ta, sông núi đứng kề nhau.
Cả
núi cả sông xanh một màu.
Tháng
Tám trời thu vương khói nhẹ.
Đèn
khuya, sương ướt đẫm hàng dâu.
Ngái
ngủ, thuyền bè nằm dưới bến.
Tỳ
bà tiễn khách vọng trên lầu.
Đêm
được thả thuyền sông Xích Bích, 2)
Trong
lòng ấp ủ đã từ lâu.
_____________
(1) Dßng s«ng xuÊt ph¸t tõ Toµn Ch©u,
ch¶y ®Õn Ng« Ch©u (®Òu ë tØnh Qu¶ng T©y) th× hîp víi s«ng TÇm Giang.
(2) ChØ cuéc ch¬i thuyÒn ban ®ªm cña T«
§«ng Pha ®êi Tèng ë s«ng XÝch BÝch.
Thơ đề đình Tỳ Bà 1)
Bên
đình liễu rủ, nước xanh trong,
Nửa
mái lầu xanh, giữa ráng hồng.
Trăng
còn đẫm lệ quan Tư mã, 2)
Tiếng
đàn ngày trước vẳng trên sông.
Cảnh
đẹp nơi này lưu sử sách,
Thuyền
nhỏ cô đơn, sóng bập bồng.
Tôi
ở phương xa, chung cảm xúc,
Bùi
ngùi mỗi bận đọc thơ ông.
_______________
(1)
Đình ở ngoài thành Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, nơi Bạch Cư Dị, thi hào đời
Đường, tiễn khách đêm trăng, gặp người chơi đàn tỳ bà và viết bài Tỳ Bà Hành
nổi tiếng.
(2)
Tức Bạch Cư Dị, lúc ấy làm quan Tư mã ở Giang Châu, Giang Tây.
Đêm ấy, lại sang đò cửa
sông Xích Bích
Doi
cát bên sông, bãi sậy gầy.
Chèo
đò, bài hát thật mê say.
Chiến
trận Tôn Tào 1) xưa chẳng thấy,
Chỉ
thấy dòng sông nước vẫn đầy.
Dưới
bến, cánh buồm no gió thổi.
Trên
bờ, đèn lạnh, sáng lung lay.
Ai
chơi thuyền nhỏ sau Tô Thức? 1)
Chiếc
đò mờ ảo giữa mù mây.
________
(1)
Tức Tô Đông Pha, thi hào đời Tống.
Chiều thu, dọc đường Thang
Âm 1),
ngắm cảnh đồng nội
Sắc
thu xen lối cũ.
Khách
đi vội trên đường.
Gió
heo may se lạnh.
Núi
nhuộm ánh tà dương.
Đồng
cỏ xanh tít tắp.
Liễu
rủ bóng bờ mương.
Nhìn
con cò bay lượn,
Chạnh
lòng nhớ quê hương.
_______________
(1) Tªn mét huyÖn thuéc tØnh Hµ Nam,
Trung Quèc, quª hư¬ng cña Nh¹c Phi ®êi Tèng.
Đêm thu ở quán trọ
Dừng
chân quán trọ, khóm mai xanh.
Tiếng
thu đã đến báo trên cành.
Ngoài
cửa sông trôi như giải lụa.
Trăng
nhô phía biển, chiếu qua mành.
Đèn
chong trên án, lòng thương nhớ.
Trước
lầu tiếng trống giục sang canh.
Xa
xa ai hát bài ly biệt.
Khói
trắng trên sông, mộng chẳng thành.
Đêm trung thu, ở quán
khách
Từ
biển vầng trăng mới nhú lên,
Lạnh
lùng chiếu sáng mép hàng hiên.
Lo
nghĩ việc quan, thu vợi nửa.
Nỗi
buồn nhớ nước vẫn còn nguyên.
Tóc
bạc, suốt đêm ngồi tựa cửa.
Uống
say mong vợi bớt ưu phiền.
Một
năm đi sứ dài vất vả,
Thành
Xuân, ải Lạng, tới Đài Yên 1).
_____________
(1) ChÆng ®ưêng ®i sø tõ thµnh Phó Xu©n qua ¶i L¹ng S¬n ®Õn Yªn §µi, kinh ®«
nhµ Thanh, tøc B¾c Kinh ngµy nay.
Như thử lương dạ
hà 1)
Tựa
trời, ngồi uống rượu,
Ngắm
dòng sông Ngân Hà.
Ngoài
sân trăng như sữa.
Nhà
bên rộn tiếng ca.
Mùa
thu đâu cũng đẹp.
Chỉ
tiếc mình đã già.
Ngồi
bên ngọn đèn lạnh,
Lại
bâng khuâng nhớ nhà.
_______________
(1) Bµi "HËu XÝch BÝch phó"
cña T« §«ng Pha cã c©u "NguyÖt b¹ch phong thanh, nhưthö lư¬ng d¹ hµ", nghÜa lµ "Tr¨ng
trong giã m¸t, ®ªm tèt nµy biÕt lµm g× ®©y". Chó thÝch cña t¸c gi¶: ngµy
13, vµo triÒu lÔ v¹n thä, cïng c¸c v¨n thÇn nãi chuyÖn, ng©m th¬, mäi ngưêi lÊy c©u "Như thö lư¬ng d¹ hµ" lµm ®Çu ®Ò ®Ó
xưíng ho¹.
Ngày giỗ cha tháng Tám
Hiu
hiu gió biển lạnh.
Ngồi
trong thuyền nhìn ra.
Song
Cương, 1) mây che núi.
Như
chim, luôn xa nhà.
Thoắt,
lại thêm một giỗ.
Theo
triều dâng, lệ nhòa.
Làm
trai mà vô dụng,
Thà
làm phận đàn bà.
___________
(1) Tªn mét ngän nói ë Giang T©y, Trung
Quèc, n¬i t¸ng mé cha mÑ ¢u Dư¬ng Tù, mét v¨n hµo ®êi Tèng. §©y dïng
®Ó chØ n¬i t¸ng mé cha mÑ cña Ng« Th× NhËm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét