Anh Khoa ơi, bài thơ “Đánh đu” bấy lâu nay được
coi là của Hồ Xuân Hương, hóa ra lại của Lê Thánh Tông. Trong văn bản của Lê
Thánh Tông, hiện có ở Viện Hán Nôm chỉ khác vài chữ. Nguyên văn như thế này:
"Bốn
cột khen ai khéo trồng
Anh lên đánh, ả còn ngong
Cúng thổ
địa khom khom cật
Vái Hoàng
thiên ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh
quần hồng bay phấp phới
Đôi hàng
chân ngọc duỗi song song
Du xuân mới
biết xuân chăng tá
Cọc nhổ đi
rồi lỗ bỏ không"
Bài thơ này chỉ khác mấy chữ so với bài cùng tên
tương truyền của Hồ Xuân Hương. Chỗ tôi, không ít người mê Hồ Xuân Hương rất
tâm đắc với ý kiến của ông Trần Nhuận Minh và họ cho rằng thơ Hồ Xuân Hương bấy
lâu ta truyền tụng là thơ dân gian, do các nhà nho bất đắc trí làm rồi gán cho
bà. Cái giọng ngang tàng ấy, khó có thể là giọng của một bà vợ lẽ ở thời đại
phong kiến rất khắc nghiệt. Bài “Thiếu nữ
ngủ ngày” lại mang đầy chất nhục dục. Đó là cái nhìn của đàn ông. Phụ nữ
nhìn phụ nữ khỏa thân như nhìn một bức tượng thánh, nghĩa là rất siêu thoát,
chứ không đượm mùi xác thịt. Anh nghĩ thế nào về điều này? Anh có thông tin gì
thêm về Hồ Xuân Hương không?
NGUYỄN TIẾN ĐÀM
Cựu bác sĩ Khoa Nội. Bệnh viện 5-8 Thủy Nguyên Hải Phòng.
TRẦN
ĐĂNG KHOA
Thực ra, thông tin về bà Hồ Xuân Hương thì nhà thơ Trần Nhuận Minh có rất nhiều
tư liệu đáng tin cậy và có sức thuyết phục hơn tôi. Bấy lâu nay chúng ta vẫn
coi bà là một hiện tượng độc đáo của văn học thế giới chứ không riêng Việt Nam . Nhưng độc
đáo lại ở phần truyền tụng, là cái phần như bác nói, là mảng văn học dân gian
gán cho bà. Để đánh giá chính xác về bà, cần căn cứ vào những tư liệu có tính
khoa học chính xác chứ không thể nói theo cảm tính. Bài thơ "Đánh
đu", thì đúng là của Lê Thánh Tông rồi. Quá rõ rồi. Ta không bàn đến nữa.
Còn với "Thiếu nữ ngủ ngày" nếu chỉ căn cứ vào cái nhìn nhuốm màu
nhục dục mà khẳng định không phải thơ phụ nữ thì cũng chưa thuyết phục lắm đâu.
Bởi vẫn có những người “cãi lại”. Nếu cứ nghĩ văn sao người vậy có khi lại nhầm
to đấy. Hồ Xuân Hương cách xa chúng ta quá. Hãy cứ xem ngay người ở gần ta hơn,
là nhà văn Vũ Trọng Phụng chẳng hạn. Trước đây, đọc Vũ Trọng Phụng, nhiều người
nghĩ ông là kẻ trác táng và không ít người đã nhìn ông bằng con mắt dị nghị. Sự
thực ở ngoài đời, Vũ Trọng Phụng sống rất chỉn chu và mực thước như một nhà
nho. Hồ Xuân Hương cũng vậy. Bà rất chỉn chu và mực thước. Đấy là người ở cùng
thời với bà nói vậy. Người ấy là ông Tốn Phong. Bà đâu có ngắm thiếu nữ ngủ ngày
mà chàng quân tử ngắm đấy chứ. Quân tử dùng dằng, đi chẳng dứt. Đàn ông ngắm
đàn bà khỏa thân nên cái nhìn nhuốm màu xác thịt là đúng quá rồi. Có thể xem đó
như một thành công trong sự hóa thân của nữ thi sĩ. Chỉ có điều, bài thơ này
không có trong văn bản chính thức của bà mà chúng ta đã có ở viện Hán Nôm.
Những bài thơ chính thức của bà là tập Lưu Hương ký, chính bà nói với ông Tốn
Phong là cả đời bà chỉ có mấy bài thơ ấy. Đấy là bằng chứng chuẩn nhất, khoa
học nhất. Còn việc băn khoăn về những bài thơ tuyệt vời độc đáo bấy lâu nay
chúng ta truyền tụng không phải của bà thì đâu phải chỉ có bè bạn bác, không ít
nhà nghiên cứu cũng có sự băn khoăn như vậy. Sở dĩ có chuyện đó là vì họ căn cứ
vào thi pháp của tập Lưu Hương Ký, một thi pháp và phong cách hoàn toàn khác.
Đấy lại là văn bản chính thức của thơ Hồ Xuân Hương. Trong đó tuyệt không có
một bài nào mà mảng thơ truyền tụng.
Cứ như quan niệm của nhiều nhà nghiên cứu thì cuộc đời và thơ văn Hồ Xuân Hương
luôn là đề tài tranh luận và nhiều điều sẽ được thời gian làm sáng tỏ. Theo nhà
thơ Trần Nhuận Minh thì qua một số tư liệu đã xuất bản thành sách, trong đó có
Gia phả Họ Hồ, có cơ sở để có thể tin cậy được, thì Hồ Xuân Hương là con gái
ông Hồ Sĩ Danh. Ông Danh sinh năm 1704 ở làng Hoàn Hậu, xã Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, Nghệ An, đỗ Giám sinh năm 1732. Năm 1739, ông có con trai đầu là Hồ
Sĩ Đống, sau này đỗ Hoàng Giáp, làm quan đến chức Tham Tụng (Tể Tướng), điều
hành Chính phủ thời Chúa Trịnh, có tư dinh ở cạnh Hồ Giám. Năm 1740, ông Danh
đi thăm đền Kiếp Bạc và gặp bà họ Hà (Sinh năm 1724). Ông theo bà về quê bà ở
làng Hoạch, tỉnh Hải Dương, dạy học rồi cưới bà làm vợ. Bà vợ trước vẫn ở Quỳnh
Đôi. Năm 1743, bà họ Hà sinh một con trai. Năm 1750, con trai bà chết vì bệnh
đậu mùa. Năm 1753, ông Danh đưa bà về Khán Xuân (Hà Nội) cạnh Hồ Tây. Mùa xuân
năm Canh Dần 1770, con gái của bà là Hồ Xuân Hương ra đời. Năm đó ông Danh đã
66 tuổi và bà họ Hà cũng đã 46 tuổi. Bà Hồ Xuân Hương đã từng yêu ông Nguyễn
Du, đại thi hào, tác giả Truyện Kiều, Văn chiêu hồn, có anh ruột là Nguyễn Khản
cùng làm Tham Tụng (Tể Tướng) thời Chúa Trịnh, tư dinh ở gần Hồ Tây. Năm 1803,
bà lấy ông Nguyễn Công Hòa, quê xã Sơn Dương huyện Phong Châu (Phú Thọ). Sau
ông Hòa chết. Năm 1813 bà gặp ông Trần Phúc Hiển. Ông Hiển là con ông Trần Phúc
Nhân. Ông Nhân từng làm tham mưu trong quân đội Nguyễn Ánh, giúp Nguyễn Ánh
đánh chiếm được kinh đô Phú Xuân (Huế) của vua Quang Toản, triều Tây Sơn rồi tử
trận ở đó. Do vậy ông Hiển được vua Gia Long đặc ân, năm 1808 cho làm Tri Phủ
Tam Đới (Phú Thọ). Năm 1813, vợ ông Hiển chết. Cũng năm ấy, ông được thăng Tham
hiệp Trấn Yên Quảng (là tỉnh Quảng Ninh ngày nay. Chức ông tương đương chức Chủ
tịch tỉnh bây giờ) và về nhậm chức. Năm 1814, bà Hồ Xuân Hương theo ông Hiển về
thăm Quảng Ninh bằng đường thủy, có qua Bạch Đằng, Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long,
và bà có 7 bài thơ viết về vùng đất này hiện có trong tập "Lưu hương
ký". Đầu năm 1815, ông Hiển cưới bà làm vợ. Bà ở với chồng tại Yên Quảng
và được chồng cho dự vào việc quan. Năm 1818 ông Hiển bị tố giác là ăn hối lộ
bảy trăm quan tiền trong việc đất ruộng ở Tiên Yên, và theo phép nước phải chịu
xử chém. Bà xin ân xá cho chồng nhưng vẫn phải chịu án tự xử. Mới hay thời xưa,
phép nước rất nghiêm. Ông Hiển đã phải tự tử trong trại giam ở Cửa Ông mùa thu
năm 1819. Sau khi chồng chết, bà Hồ Xuân Hương đi tu ở chùa Yên Tử. Hết tang,
bà cũng tự tử, chết theo chồng ở khu vực chùa Giải Oan Yên Tử vào mùa hè năm
Nhâm Ngọ 1822. Trước ngày chết, có một người đến thăm bà ở Yên Tử là ông Phạm
Quý Thích, bạn của Đại thi hào Nguyễn Du.
Cuộc đời Hồ Xuân Hương là thế. Hóa ra bà sống rất chỉn chu, có lễ nghiã và hết
mực yêu chồng, thủy chung với chồng. Về thơ, bà chỉ có một tập thơ duy nhất là
tập “Lưu Hương Ký”, hoàn thành tháng 2 năm 1814, nhờ ông
Nham Giác Phu Tốn Phong Thị đề tựa. "Đây là tất cả thơ
văn của cuộc đời tôi từ trước đến nay, nhờ ông viết cho một bài tựa". Tốn Phong đã ghi câu
nói ấy của bà ngay trong đầu bài Tựa và nhận xét thơ bà "Có thể xuất phát từ cảm hứng nhưng biết dừng lại ở lễ
nghĩa. Vui mà không đến nỗi buông tuồng. Buồn mà không đến nỗi đau thương”. Chính như thế. Cổ
Nguyệt Đường Xuân Hương học rộng mà thuần thục, dùng ít chữ mà đầy đủ, từ mới lạ
mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hoa, thực là một bậc tài nữ. Cô là em gái ông
lớn Họ Hồ, đậu Hoàng Giáp, người làng Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu..." Tập “Lưu Hương Ký” của Hồ Xuân Hương được tìm thấy năm 1964 và được
công bố rộng rãi. Trong tập thơ được coi là văn bản chính thức của bà, là thơ
văn của cả cuộc đời bà, như tôi nói, tuyệt không có bài thơ nào như thơ được
coi là của bà mà ta đã truyền tụng, cũng không có bài nào viết theo phong cách
thơ được coi là thơ của bà. Sau đó các nhà nghiên cứu lục trong kho sách cũ,
còn tìm được thêm mười hai tư liệu khác, cơ bản đều thống nhất với nhau về tiểu
sử, gia thế và thơ văn của bà như đã nói trên. Do đó, một số nhà nghiên cứu
trong đó có Hoàng Xuân Hãn, Trần Thanh Mại, Trần Nhuận Minh, Đào Thái Tôn đã đề
nghị khoanh phần thơ Hồ Xuân Hương được truyền tụng trong dân gian là thơ
khuyết danh hoặc thơ dân gian, và yêu cầu các nhà xuất bản không in bổ sung
những bài thơ được truyền tụng là của Hồ Xuân Hương nữa, vì mỗi lần in, số bài
lại tăng lên, trong đó có cả bài "Đánh đu" mà bác vừa đề cập. Nhà thơ
lớn và nhà phê bình thơ đặc sắc Xuân Diệu, người gọi Hồ Xuân Hương là "Bà
chúa thơ Nôm", đã có lần nói với nhà thơ Trần Nhuận Minh: "Đừng nên
đặt vấn đề đó ra nữa. Cái gì đã ổn định đến 50 năm là bất tử rồi, không thay
đổi được đâu. Mà thay đổi như thế để làm gì?. Có một Hồ Xuân Hương giả để thằng
Tây nó sợ thật còn hơn là chẳng có gì". Về tình cảm thì tôi rất cảm thông
với Xuân Diệu, nhưng về khoa học thì lại phải rành mạch rõ ràng. Không thể để
cho “thằng Tây” nó sợ, nhưng lại là giá trị giả. Bà Hồ Xuân Hương cũng không
cần mảng thơ ấy, vì chỉ tập “Lưu Hương Ký” cũng đã đủ là một giá
trị rồi. Thơ truyền tụng là mảng thơ độc đáo. Nhưng là thơ dân gian, vẫn là của
Việt Nam
chứ có mất đi đâu. Cũng như rất nhiều kiệt tác ca dao dân gian mà Đại thi hào
Nguyễn Du còn phải học và đưa vào Truyện Kiều, như câu ca dao:
“Vầng trăng ai xẻ làm
hai
Nửa in đáy nước nửa cài
trên không”
thành
câu thơ Nguyễn Du:
“Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi
dặm trường”.
Hay câu ca dao:
“Ai đi trăm núi ngàn
sông
Để ai chứa chất sầu đong
vơi đầy”.
Nguyễn
Du vận dụng thành câu thơ cũng rất hay:
“Sầu đong càng lắc càng
đầy
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê”.
Bây
giờ các công trình xuất bản có tính khoa học, ít chạy theo thị hiếu tầm thường
để kinh doanh, đều in thơ Hồ Xuân Hương có hai phần riêng. Phần Lưu Hương Ký và
phần thơ được truyền tụng là của Hồ Xuân Hương. Làm như vậy là rất khoa học và
cũng rất đúng đắn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét